Sach
Chia sẻ bởi Lê Thị Minh Vương |
Ngày 12/10/2018 |
88
Chia sẻ tài liệu: sach thuộc Các nhà văn, nhà thơ
Nội dung tài liệu:
Công thông tin (CNTT) đang làm sâu lĩnh trên vi toàn . và nhà ta cũng đã xác CNTT là ngành khoa , công mũi tiên, phát ra rõ năng , và kinh .
Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị đã khẳng định "CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế văn hóa của thế giới hiện đại".
Đối với ngành thông tin – thư viện, CNTT không phải chỉ là ứng dụng quan trọng cho ngành mà hiện nay CNTT chính là nghiệp vụ của thư viện hiện đại. Việc quản lý thông tin được xem như là thành quả của CNTT.
Chúng ta dễ dàng nhận thức được rằng ngày nay để nghiên cứu chuyên sâu và có giá trị đích thực về ngành thư viện - thông tin thì việc nghiên cứu đó không thể tách rời CNTT, thậm chí hoàn toàn phụ thuộc vào CNTT. Nhiều nhà hoạch định chương trình đào tạo ngành thư viện - thông tin trên thế giới đã có một cách nhìn thực tế và chiến lược khi sáp nhập hoàn toàn việc đào tạo thư viện - thông tin vào ngành CNTT. Điển hình như trường hợp Đại học Brighton, Anh Quốc, năm 1990 đã kết hợp Khoa Thư viện - Thông tin học tồn tại trong gần nửa thế kỷ với Khoa Tính toán để thành lập Trường Quản lý thông tin trực thuộc Trường đại học CNTT; và trường hợp Đại học Kỹ thuật Nanyang, Singapore, năm 2000 thành lập Khoa Thông tin học trực thuộc Trường Truyền thông và thông tin.
Nếu chúng ta muốn hoạch định một chiến lược đào tạo ngành thư viện - thông tin Việt Nam thì không thể tách khỏi ý tưởng thực tế và chiến lược thư viện - công nghệ thông tin đó; vả lại ở nước ta, vấn đề mã ngành là một ràng buộc cho cán bộ thông tin - thư viện có trình độ muốn nghiên cứu chuyên sâu hay nghiên cứu sinh về ngành nghề của mình hoặc những ứng dụng công nghệ để phát triển ngành nghề, mà những nghiên cứu đó hoàn toàn thuộc lĩnh vực CNTT. Chẳng hạn như những nghiên cứu về Khai thác dữ liệu; Thiết lập cơ sở tri thức; Biên mục tự động; Xây dựng kho tài nguyên học tập điện tử; Xây dựng thư viện số; vv…
Hiện trạng đào tạo ngành thông tin - thư viện ở Việt Nam
Hiện nay có ba cơ sở đào tạo cử nhân Thông tin - Thư viện được đặt trong ngành xã hội nhân văn và Văn hóa. Nội dung và chương trình đào tạo không đáp ứng được yêu cầu xây dựng thư viện hiện đại với việc ứng dụng CNTT triệt để như hiện nay nhằm phục vụ công cuộc phát triển của thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới. Về cơ bản chương trình đào tạo này chưa làm thay đổi tầm nhìn và cách nhìn của người cán bộ thông tin thư viện trong kỷ nguyên thông tin hiện nay.
Ngày nay giá trị thư viện không ở chỗ thư viện sở hữu bao nhiêu tài nguyên thông tin mà ở chỗ thư viện sử dụng CNTT như thế nào để truy hồi thông tin khắp nơi nhằm phục vụ tốt cho người sử dụng. Chương trình đào tạo này không làm nổi bật được vai trò tối quan trong của CNTT trong sự nghiệp phát triển thư viện. Nhu cầu xây dựng thư viện điện tử ngày càng cao, nhưng đội ngũ cán bộ thông tin thư viện hiện đại thì quá mỏng, hầu hết họ được đào tạo ở nước ngoài.
Để đáp ứng một phần nhỏ yêu cầu bức thiết trên, từ năm 2001 Thư viện Cao học, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh đã phối hợp với trường THCN Tin học và Viễn thông Biên Hòa, Đồng Nai cùng sự hỗ trợ của Trung tâp Phát triển CNTT, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh đã xin phép và được Bộ Giáo dục và đào tạo cho phép đào tạo Chương trình trung cấp Hệ chính quy CNTT, chuyên ngành Thư viện điện tử với mã ngành 10.02.03. Khóa I Trung cấp thư viện điện tử đã được đào tạo thành công.
Hiện nay nhu cầu được đào tạo để xây dựng và quản lý thư viện điện tử trở thành một yêu cầu cấp thiết. Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó, việc đào tạo thông tin - thư viện dựa vào CNTT là tối ưu.
Do đó CNTT đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng, quản lý và phát triển thư viện điện tử Nếu chúng ta xem hai điểm mốc trong lịch sử phát triển ngành thư viện - thông tin như hai chu kỳ thì ngành thư viện - thông tin nước ta dường như chậm mất một chu kỳ. Có nghĩa rằng chúng ta hầu như vừa mới bước qua giai đoạn thôi dùng hệ thống mục lục phiếu trong khi toàn thế giới đang phát triển thư
Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị đã khẳng định "CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế văn hóa của thế giới hiện đại".
Đối với ngành thông tin – thư viện, CNTT không phải chỉ là ứng dụng quan trọng cho ngành mà hiện nay CNTT chính là nghiệp vụ của thư viện hiện đại. Việc quản lý thông tin được xem như là thành quả của CNTT.
Chúng ta dễ dàng nhận thức được rằng ngày nay để nghiên cứu chuyên sâu và có giá trị đích thực về ngành thư viện - thông tin thì việc nghiên cứu đó không thể tách rời CNTT, thậm chí hoàn toàn phụ thuộc vào CNTT. Nhiều nhà hoạch định chương trình đào tạo ngành thư viện - thông tin trên thế giới đã có một cách nhìn thực tế và chiến lược khi sáp nhập hoàn toàn việc đào tạo thư viện - thông tin vào ngành CNTT. Điển hình như trường hợp Đại học Brighton, Anh Quốc, năm 1990 đã kết hợp Khoa Thư viện - Thông tin học tồn tại trong gần nửa thế kỷ với Khoa Tính toán để thành lập Trường Quản lý thông tin trực thuộc Trường đại học CNTT; và trường hợp Đại học Kỹ thuật Nanyang, Singapore, năm 2000 thành lập Khoa Thông tin học trực thuộc Trường Truyền thông và thông tin.
Nếu chúng ta muốn hoạch định một chiến lược đào tạo ngành thư viện - thông tin Việt Nam thì không thể tách khỏi ý tưởng thực tế và chiến lược thư viện - công nghệ thông tin đó; vả lại ở nước ta, vấn đề mã ngành là một ràng buộc cho cán bộ thông tin - thư viện có trình độ muốn nghiên cứu chuyên sâu hay nghiên cứu sinh về ngành nghề của mình hoặc những ứng dụng công nghệ để phát triển ngành nghề, mà những nghiên cứu đó hoàn toàn thuộc lĩnh vực CNTT. Chẳng hạn như những nghiên cứu về Khai thác dữ liệu; Thiết lập cơ sở tri thức; Biên mục tự động; Xây dựng kho tài nguyên học tập điện tử; Xây dựng thư viện số; vv…
Hiện trạng đào tạo ngành thông tin - thư viện ở Việt Nam
Hiện nay có ba cơ sở đào tạo cử nhân Thông tin - Thư viện được đặt trong ngành xã hội nhân văn và Văn hóa. Nội dung và chương trình đào tạo không đáp ứng được yêu cầu xây dựng thư viện hiện đại với việc ứng dụng CNTT triệt để như hiện nay nhằm phục vụ công cuộc phát triển của thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới. Về cơ bản chương trình đào tạo này chưa làm thay đổi tầm nhìn và cách nhìn của người cán bộ thông tin thư viện trong kỷ nguyên thông tin hiện nay.
Ngày nay giá trị thư viện không ở chỗ thư viện sở hữu bao nhiêu tài nguyên thông tin mà ở chỗ thư viện sử dụng CNTT như thế nào để truy hồi thông tin khắp nơi nhằm phục vụ tốt cho người sử dụng. Chương trình đào tạo này không làm nổi bật được vai trò tối quan trong của CNTT trong sự nghiệp phát triển thư viện. Nhu cầu xây dựng thư viện điện tử ngày càng cao, nhưng đội ngũ cán bộ thông tin thư viện hiện đại thì quá mỏng, hầu hết họ được đào tạo ở nước ngoài.
Để đáp ứng một phần nhỏ yêu cầu bức thiết trên, từ năm 2001 Thư viện Cao học, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh đã phối hợp với trường THCN Tin học và Viễn thông Biên Hòa, Đồng Nai cùng sự hỗ trợ của Trung tâp Phát triển CNTT, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh đã xin phép và được Bộ Giáo dục và đào tạo cho phép đào tạo Chương trình trung cấp Hệ chính quy CNTT, chuyên ngành Thư viện điện tử với mã ngành 10.02.03. Khóa I Trung cấp thư viện điện tử đã được đào tạo thành công.
Hiện nay nhu cầu được đào tạo để xây dựng và quản lý thư viện điện tử trở thành một yêu cầu cấp thiết. Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết đó, việc đào tạo thông tin - thư viện dựa vào CNTT là tối ưu.
Do đó CNTT đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng, quản lý và phát triển thư viện điện tử Nếu chúng ta xem hai điểm mốc trong lịch sử phát triển ngành thư viện - thông tin như hai chu kỳ thì ngành thư viện - thông tin nước ta dường như chậm mất một chu kỳ. Có nghĩa rằng chúng ta hầu như vừa mới bước qua giai đoạn thôi dùng hệ thống mục lục phiếu trong khi toàn thế giới đang phát triển thư
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Thị Minh Vương
Dung lượng: 1,03MB|
Lượt tài: 4
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)