Lê quý đôn
Chia sẻ bởi Nguyễn Khánh Toàn |
Ngày 12/10/2018 |
60
Chia sẻ tài liệu: lê quý đôn thuộc Các nhà văn, nhà thơ
Nội dung tài liệu:
Lê Quý Đôn (: 黎貴惇, - ), tên thuở nhỏ là Lê Danh Phương1tự Doãn Hậu (允厚), hiệu Quế Đường; là quan thời trung , là , và là "bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến2
Mục lục
[]
Thân thế và sự
.1 Cả ba lần thi đều đỗ
.2 Làm quan và biên soạn
.3 Qua
Tác
.1 1. Các sách bàn giảng về kinh,
.2 2. Các sách khảo cứu về cổ
.3 3. Các sách sưu tập thi
.4 4. Các sách khảo về sử ký địa
.5 5. Thơ
Nhận
Giai thoại văn
Vinh
Chú
Sách tham
Chú
Thân và [| mã ]
Ông sinh ngày tháng năm (tháng năm ) tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn ; nay thuộc xã Độc Lập, huyện , tỉnh .
Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ3đỗ năm Bảo Thái thứ 2 (, 1721), và làm quan trải đến chức , tước Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quý Đôn họ Trương (không rõ tên), là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa (), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.
Cả ba lần thi đều đỗ đầu[| mã ]
Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là người ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". Năm lên 5 tuổi, ông đã đọc được nhiều bài trong . Năm 12 tuổi, ông đã học "khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử4
Năm (), ông theo cha lên học ở kinh đô . Năm () đời vua Hiển , ông dự và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 17 tuổi. Sau đó, ông cưới cô Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Cô là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa ().
Tuy đỗ đầu kỳ thi Hương, nhưng mấy lần, ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (-). Sách Việt thông (còn gọi là "Lê triều thông sử") được ông làm trong giai đoạn này (, 5
Năm 26 tuổi (, ), ông lại dự thi Hội, và lần này thì đỗ Hội nguyên. Vào , ông đỗ luôn . Vì kỳ thi này không lấy đỗ , nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu.
Làm quan và biên soạn sách[| mã ]
Sau khi đỗ đại khoa, năm () 6Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm ().
Năm (), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác "6, 7 viên quan ăn hối lộ" 7năm đó, ông được biệt phái sang phủ chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên7Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo , , ...rồi đem quân đi đánh quân của Công 8
Năm (), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này, ông viết Quần thư khảo biện.
Năm (), vua Ý mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Lê Duy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang () báo tang và nộp cống ().
Trên đường sang Yên Kinh (nay là ), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của nước (Nay là ) là "di quan, di mục" (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là "An Nam cống sứ9Việc đáng kể nữa trong chuyến đi sứ này, đó là ông đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm. Đặc biệt, khi đến làm lễ ở điện Hồng Lô, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ
Mục lục
[]
Thân thế và sự
.1 Cả ba lần thi đều đỗ
.2 Làm quan và biên soạn
.3 Qua
Tác
.1 1. Các sách bàn giảng về kinh,
.2 2. Các sách khảo cứu về cổ
.3 3. Các sách sưu tập thi
.4 4. Các sách khảo về sử ký địa
.5 5. Thơ
Nhận
Giai thoại văn
Vinh
Chú
Sách tham
Chú
Thân và [| mã ]
Ông sinh ngày tháng năm (tháng năm ) tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn ; nay thuộc xã Độc Lập, huyện , tỉnh .
Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ (sau đổi là Lê Trọng Thứ3đỗ năm Bảo Thái thứ 2 (, 1721), và làm quan trải đến chức , tước Nghĩa Phái hầu. Mẹ Lê Quý Đôn họ Trương (không rõ tên), là con gái thứ ba của Trương Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa (), trải nhiều chức quan, tước Hoằng Phái hầu.
Cả ba lần thi đều đỗ đầu[| mã ]
Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là người ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". Năm lên 5 tuổi, ông đã đọc được nhiều bài trong . Năm 12 tuổi, ông đã học "khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử4
Năm (), ông theo cha lên học ở kinh đô . Năm () đời vua Hiển , ông dự và đỗ đầu (Giải nguyên) lúc 17 tuổi. Sau đó, ông cưới cô Lê Thị Trang ở phường Bích Câu làm vợ. Cô là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa ().
Tuy đỗ đầu kỳ thi Hương, nhưng mấy lần, ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10 năm (-). Sách Việt thông (còn gọi là "Lê triều thông sử") được ông làm trong giai đoạn này (, 5
Năm 26 tuổi (, ), ông lại dự thi Hội, và lần này thì đỗ Hội nguyên. Vào , ông đỗ luôn . Vì kỳ thi này không lấy đỗ , nên kể như cả ba lần thi, ông đều đỗ đầu.
Làm quan và biên soạn sách[| mã ]
Sau khi đỗ đại khoa, năm () 6Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở Viện Hàn Lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm ().
Năm (), ông được cử đi thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác "6, 7 viên quan ăn hối lộ" 7năm đó, ông được biệt phái sang phủ chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh phiên7Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo , , ...rồi đem quân đi đánh quân của Công 8
Năm (), ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này, ông viết Quần thư khảo biện.
Năm (), vua Ý mất, triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Lê Duy Mật, Trịnh Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang () báo tang và nộp cống ().
Trên đường sang Yên Kinh (nay là ), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của nước (Nay là ) là "di quan, di mục" (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối, từ đấy họ mới gọi là "An Nam cống sứ9Việc đáng kể nữa trong chuyến đi sứ này, đó là ông đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến thăm. Đặc biệt, khi đến làm lễ ở điện Hồng Lô, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Khánh Toàn
Dung lượng: 45,07KB|
Lượt tài: 3
Loại file: docx
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)