Giang Nam & cô du kích nhỏ
Chia sẻ bởi Phạm Huy Hoạt |
Ngày 12/10/2018 |
82
Chia sẻ tài liệu: Giang Nam & cô du kích nhỏ thuộc Các nhà văn, nhà thơ
Nội dung tài liệu:
Nhà thơ Giang Nam và sự thật về “cô du kích”
“Giặc bắn em rồi quăng mất xác/
Chỉ vì em là du kích em ơi…”.
Những câu thơ ấy trong bài thơ “Quê hương” của Giang Nam đã được viết ra hơn nửa thế kỷ trước, năm 1960, tại vùng căn cứ Đá Bàn của tỉnh Khánh Hòa. Ít ai biết rằng, đã có một sự nhầm lẫn - cô du kích khi ấy vẫn còn sống. Và sự nhầm lẫn ấy đã để lại cho những thế hệ yêu văn học Việt một bài thơ cảm động cũng như một mối tình son sắt đồng hành cùng sức sống của bài thơ suốt hơn 50 năm qua.
Giang Nam đoàn tụ với “cô du kích” Phạm Thị Triều và con gái ở Củ Chi năm 1973
Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên” trong bài thơ “Quê hương” sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng tại Vĩnh Trường, Nha Trang. Chị em bà lớn lên đều lần lượt tham gia kháng chiến. Chưa đầy mười tuổi nhưng Phạm Thị Triều đã theo chị gái hoạt động tích cực ở căn cứ Đồng Bò, gia đình cho người nhắn gọi cũng không về. Khi mặt trận Nha Trang vỡ, bà được điều lên Đá Bàn làm ở Văn phòng Tỉnh ủy. Còn Giang Nam lớn lên từ huyện Ninh Hoà, Khánh Hòa. Bỏ ngang trường Quốc học bậc cao đẳng tiểu học Quy Nhơn, ông về hoạt động tại xã. Xã Vạn Thắng của ông ngày ấy trong tình trạng “ngày địch đêm ta”. Ba anh trai đều đã lên căn cứ hoạt động cách mạng, cha ông khi đó đã nói với các con rằng “chúng bay đi đi, nhưng để lại cho tau một thằng lo hương khói tổ tiên”. Và cậu con trai út, em của Giang Nam được giao trách nhiệm đó. Nhưng khi tình hình nguy cấp, cha ông đành gạt nước mắt đồng ý để đứa con trai cuối cùng vào cứ với các anh. Cùng ở khối cơ quan Quân Dân Chính Đảng nên Giang Nam và bà Triều quen biết nhau, tuy “tình trong như đã” nhưng chẳng ai dám ngỏ lời. Chuyện yêu đương trong tổ chức ngày ấy là một cấm kỵ. Khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Geneva giữa ta và Pháp, tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, bà từ căn cứ trở về Nha Trang hoạt động. Khi chia tay, ông bà và đồng đội hi vọng rằng chỉ hai năm sau sẽ được đoàn tụ theo tinh thần hiệp định, không ai nghĩ đó là cuộc chia ly không hẹn ngày về. Ông được tổ chức đưa về lại Nha Trang, sau đó vào Sài Gòn làm giấy tờ hợp pháp với tên họ, quê quán mới để dễ bề hoạt động. Dù sống ngay trên thành phố quê hương mình nhưng ông bà vẫn hoạt động ở 2 tuyến khác nhau không được gặp mặt, ông luôn phải cảnh giác giữ bí mật, ngoài lính tráng, mật vụ nhan nhản thì còn mối lo bị người quen bắt gặp sẽ lộ. Ông miệt mài với công việc tổ chức giao, âm thầm tham gia tờ báo hợp pháp với tên gọi “Gió mới” hoạt động công khai tại nội thành Nha Trang, dưới vỏ bọc một công nhân xưởng cưa, ông đều đặn viết bài tuyên truyền cho cách mạng, định hướng lý tưởng cho thanh niên... Khi Mỹ nguỵ tiến hành các đợt “tố cộng”, “diệt cộng”, cán bộ đảng viên ở miền Nam phải tổ chức đổi vùng để tránh bị lộ. Tổ chức đã sắp xếp để ông bà chuyển vùng hoạt động về Biên Hoà. Đây cũng là lần đầu tiên sau 4 năm cưới nhau ông bà mới có điều kiện ở bên nhau. Hai vợ chồng thuê một căn nhà nhỏ trong xóm lao động nghèo, ông làm công cho một tư sản thầu khoán người Việt, bà buôn bán lặt vặt, nắm bắt tình hình chờ lệnh của trên. Nhiệm vụ lúc này là dựa vào quần chúng để tồn tại hợp pháp, không để bị bắt. Đó cũng là thời gian bà sinh cô con gái đầu tiên và cũng là duy nhất của ông bà. Một thời gian sau, tình hình lắng xuống, tổ chức quyết định rút ông về Khánh Hoà. Bà ở lại một mình nuôi con, con gái khóc ngằn ngặt vì nhớ cha, bà phải lấy chiếc áo của ông để đắp cho con đỡ khóc theo lời khuyên của bà chủ cho thuê nhà tốt bụng. Một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn, đó là năm 1959. Sau khi vợ con ông bị bắt, tổ chức đã cho người dò la tung tích của bà nhưng không tìm ra manh
“Giặc bắn em rồi quăng mất xác/
Chỉ vì em là du kích em ơi…”.
Những câu thơ ấy trong bài thơ “Quê hương” của Giang Nam đã được viết ra hơn nửa thế kỷ trước, năm 1960, tại vùng căn cứ Đá Bàn của tỉnh Khánh Hòa. Ít ai biết rằng, đã có một sự nhầm lẫn - cô du kích khi ấy vẫn còn sống. Và sự nhầm lẫn ấy đã để lại cho những thế hệ yêu văn học Việt một bài thơ cảm động cũng như một mối tình son sắt đồng hành cùng sức sống của bài thơ suốt hơn 50 năm qua.
Giang Nam đoàn tụ với “cô du kích” Phạm Thị Triều và con gái ở Củ Chi năm 1973
Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên” trong bài thơ “Quê hương” sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng tại Vĩnh Trường, Nha Trang. Chị em bà lớn lên đều lần lượt tham gia kháng chiến. Chưa đầy mười tuổi nhưng Phạm Thị Triều đã theo chị gái hoạt động tích cực ở căn cứ Đồng Bò, gia đình cho người nhắn gọi cũng không về. Khi mặt trận Nha Trang vỡ, bà được điều lên Đá Bàn làm ở Văn phòng Tỉnh ủy. Còn Giang Nam lớn lên từ huyện Ninh Hoà, Khánh Hòa. Bỏ ngang trường Quốc học bậc cao đẳng tiểu học Quy Nhơn, ông về hoạt động tại xã. Xã Vạn Thắng của ông ngày ấy trong tình trạng “ngày địch đêm ta”. Ba anh trai đều đã lên căn cứ hoạt động cách mạng, cha ông khi đó đã nói với các con rằng “chúng bay đi đi, nhưng để lại cho tau một thằng lo hương khói tổ tiên”. Và cậu con trai út, em của Giang Nam được giao trách nhiệm đó. Nhưng khi tình hình nguy cấp, cha ông đành gạt nước mắt đồng ý để đứa con trai cuối cùng vào cứ với các anh. Cùng ở khối cơ quan Quân Dân Chính Đảng nên Giang Nam và bà Triều quen biết nhau, tuy “tình trong như đã” nhưng chẳng ai dám ngỏ lời. Chuyện yêu đương trong tổ chức ngày ấy là một cấm kỵ. Khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Geneva giữa ta và Pháp, tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, bà từ căn cứ trở về Nha Trang hoạt động. Khi chia tay, ông bà và đồng đội hi vọng rằng chỉ hai năm sau sẽ được đoàn tụ theo tinh thần hiệp định, không ai nghĩ đó là cuộc chia ly không hẹn ngày về. Ông được tổ chức đưa về lại Nha Trang, sau đó vào Sài Gòn làm giấy tờ hợp pháp với tên họ, quê quán mới để dễ bề hoạt động. Dù sống ngay trên thành phố quê hương mình nhưng ông bà vẫn hoạt động ở 2 tuyến khác nhau không được gặp mặt, ông luôn phải cảnh giác giữ bí mật, ngoài lính tráng, mật vụ nhan nhản thì còn mối lo bị người quen bắt gặp sẽ lộ. Ông miệt mài với công việc tổ chức giao, âm thầm tham gia tờ báo hợp pháp với tên gọi “Gió mới” hoạt động công khai tại nội thành Nha Trang, dưới vỏ bọc một công nhân xưởng cưa, ông đều đặn viết bài tuyên truyền cho cách mạng, định hướng lý tưởng cho thanh niên... Khi Mỹ nguỵ tiến hành các đợt “tố cộng”, “diệt cộng”, cán bộ đảng viên ở miền Nam phải tổ chức đổi vùng để tránh bị lộ. Tổ chức đã sắp xếp để ông bà chuyển vùng hoạt động về Biên Hoà. Đây cũng là lần đầu tiên sau 4 năm cưới nhau ông bà mới có điều kiện ở bên nhau. Hai vợ chồng thuê một căn nhà nhỏ trong xóm lao động nghèo, ông làm công cho một tư sản thầu khoán người Việt, bà buôn bán lặt vặt, nắm bắt tình hình chờ lệnh của trên. Nhiệm vụ lúc này là dựa vào quần chúng để tồn tại hợp pháp, không để bị bắt. Đó cũng là thời gian bà sinh cô con gái đầu tiên và cũng là duy nhất của ông bà. Một thời gian sau, tình hình lắng xuống, tổ chức quyết định rút ông về Khánh Hoà. Bà ở lại một mình nuôi con, con gái khóc ngằn ngặt vì nhớ cha, bà phải lấy chiếc áo của ông để đắp cho con đỡ khóc theo lời khuyên của bà chủ cho thuê nhà tốt bụng. Một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn, đó là năm 1959. Sau khi vợ con ông bị bắt, tổ chức đã cho người dò la tung tích của bà nhưng không tìm ra manh
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Huy Hoạt
Dung lượng: 115,10KB|
Lượt tài: 3
Loại file: rar
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)