Bài 22. Các đới khí hậu trên Trái Đất
Chia sẻ bởi Trần Đức Hiển |
Ngày 05/05/2019 |
73
Chia sẻ tài liệu: Bài 22. Các đới khí hậu trên Trái Đất thuộc Địa lí 6
Nội dung tài liệu:
Khí hậu cận nhiệt và sự biến đổi khí hậu toàn cầu
LỚP ĐỊA 09sdl
THẢO LUẬN
Trừơng đại học sư phạm đà nẵng
CÁC THÀNH VIÊN TRONG TỔ
1. BRIU LONG
2. ĐỖ HOÀNG THIÊN LIỄU
3. NGUYỄN THỊ HOA HỒNG
4. MAI CHIẾN THẮNG
5. NGUYỄN THỊ TÂN MÙI
6. NGUYỄN THỊ LEN
7. NGUYỄN THỊ NINH
8. NGUYỄN THỊ HƯỜNG
9. TRẦN THỊ THU HẰNG
10. TRẦN THỊ HÀ
11.TRẦN ĐỨC HIỂN
12.TRẦN THỊ HƯỜNG
13.TRẦN THỊ NGUYỆT
14.TRẦN VĂN NAM
15NGUYỄN THỊ THU HẰNG
Trên thế giời này việc phân chia các đới khí hậu trên thế giới có nhiều hướng khác nhau.trong đó có đới khí hậu cận nhiệt còn gọi là khí hậu á nhiệt đới.
-Ở khu vực á nhiệt đới, chế độ bức xạ và đặc điểm hoàn lưa khí quyển mùa đông giống khu vực ôn đới, mùa hạ giống khu vực nhiệt đới.
Năng lượng mặt trời tới trái đất nhận được hằng năm so với khu vực nhiệt đới giảm khoảng 20%. Mùa đông xoái thuận chiếm ưu thế, vì vậy thường xuyên có các khối khí lạnh ( khối khí ôn đới )tràn về, có khi tuyết rơi mùa hạ đường di chuyển của các xóay thuận,được di chuyển lên các vĩ đỘ cao hơn, trên các đại dương xoáy nghịch phát triển. Còn trên các lục địa thì các vùng áp thấp được hình thành do nhiệt lực và rất ít di chuyển.
:Kiểu khí hậu á nhiệt đới lục địa.
Mùa hạ nóng, mùa đông tương đối lạnh phân bố không khí theo chiều cao không bền vững.
Mùa hạ hoạt động của xoáy thuận yếu, năng lượng mặt trời dồn xuống lớn, lượng mưa ít nên thường khô hạn. Cân bằng bức xạ tương tự ở khu vực nhiệt đới, chủ yếu để đồt nóng không khí. Nhiệt độ trung bình của các tháng mùa hạ dưới 300c, cực đại có thể vượt qua 300c. Biên độ nhiệt ngày tuy có nhỏ hơn khu vực nhiệt đới nhưng vẫn còn lớn.
Mùa đông ở các vĩ độn cao của lục địa á nhiệt đới cân bằng bức xạ gần tới không, xoáy thuận hoạt động thường xuyên , di chuyển từ tây sang đông. Lượng mưa hang năm khoảng 500mm, nhưng có nơi không đạt được 300mm.
-Kiểu khí hậu á nhiệt đới bờ tây lục địa.
Đặc điểm là mùa đông ẩm, mưa nhiều và mùa hạ nóng khô, nắng nhiều. Loại khí hậu này gọi là khí hậu Địa trung hải.
-Kiểu khí hậu á nhiệt đới đại dương.
Khác với khí hậu lục địa là sự dao động của nhiệt độ không lớn, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là 120c, tháng ấm nhất là 200c.
Mùa đông xoáy thuận chiếm ưu thế, mưa rơi trong khu vực của frong nóng phụ trong xoáy thuận.
Mùa hạ đươngdi chuyển của xoáy thuận và frông cực nằm ở các vĩ độ cao hơn so với mùa đông.
-kiểu khí hậu á nhiệt đới bờ đông lục địa.
Khí hậu ở đây có tính chất gió mùa biểu hiện sõ ở bán cầu bắc. Mùa hạ nóng ẩm, mùa đông khô lạnh. Mùa đông không khí lạnh trên các lục địa ôn đới tràn xuống, nhiệt độ các tháng mùa đông rất thấp so với bờ tây
Khí hậu là mức độ trung bình của thời tiết trong một thời gian và không gian nhất định. Trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục năm vừa qua, khi công nghiệp phát triển, con người bắt đầu khai thác và sử dụng than đá, dầu lửa, khí đốt... Cùng với sự gia tăng các hoạt động công nghiệp, con người đã thải vào bầu khí quyển một lượng lớn khí các-bon (CO2), ni-tơ ô-xit, mê-tan..., làm bức xạ không thoát ra ngoài được, khiến bề mặt Trái đất nóng lên dẫn đến những biến đổi khí hậu.
Thực chất của biến đổi khí hậu hiện nay là do sự biến đổi của hệ thống tương tác đa chiều của khí quyển, thủy quyển, thạch quyển, sinh quyển và con người, trong đó 90% nguyên nhân do con người gây ra. Hàm lượng khí CO2 do con người phát thải tăng lên quá mức cho phép, tạo nên hiệu ứng nhà kính, làm bề mặt trái đất không ngừng nóng lên, gây ra xáo động môi trường sinh thái. Nhiệt độ bề mặt trái đất đang nóng dần lên, từ năm 1850 đến nay, nhiệt độ trung bình hằng năm đã tăng 0,74oC, dự báo có thể tăng thêm 1,1oC - 6,4oC vào năm 2100, mức tăng chưa từng có trong lịch sử 10.000 năm qua. Do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu nên các lớp băng tuyết sẽ bị tan nhanh trong những thập niên tới. Trong thế kỷ XX, mực nước biển tại châu á dâng lên trung bình 2,4 mm/năm, riêng thập niên vừa qua là 3,1 mm/năm, dự báo sẽ tiếp tục dâng cao hơn trong thế kỷ XXI khoảng 2,8mm - 4,3 mm/năm.
-Nguyên nhân do tự nhiên.
+Nguyên nhân của các biến động khí quyển hiện nay của khí hậu Trái Đất
Chủ yếu là tác động của mặt trời đối với khí quyển. Dao động của hoạt động của mặt trời với chu kỳ 11 hay 80 năm. Có thể dẫn tới tính chu kỳ trong hoàn lưa và khí hậu. Thêm vào đó là sự biến đổi có tính chu kỳ của tốc độ quay của Trái Đất.
+Nguyên nhân nữa là do các hoạt động của núi lửa và những trận động đất lớn do những hoạt động kiến tạo tạo nên. Trận động đất ở Haiti đã làm trục Trái Đất ngiêng tạo ra sự biến đổi của khí quyển.
+Chu kỳ hoạt động của mặt trời nhất là chu kỳ hoạt động của vành tai lửa của mặt trời. Một giả thuyết có liên quan do Henrik Svensmark đưa ra rằng các hoạt động của từ trường mặt trời làm lệch hướng các tia vũ trụ mà nó có thể ảnh hưởng đến việc tạo ra hạt nhân ngưng tụ mây và gây ảnh hưởng đến khí hậu Các nghiên cứu khác không thấy mối quan hệ giữa sự ấm lên với các tia vũ trụ trong các thập kỷ gần đây. Một nghiên cứu gần đây kết luận rằng các ảnh hưởng của tia vũ trụ lên các đám mây có hệ số 100 thấp hơn các biến đổi quan sát được trong các đám mây hoặc góp phần vào sự biến đổi khí hậu ngày nay.
Nguyên nhân do con người.
+Từ khi con người phát minh ra máy hơi nước, nền công ngiệp của thế giới đã được tạo lạp và phát triển. Ngày nay công ngiệp của thế giới phát triển với tốc độ chóng mặt, kéo theo hệ quả đó là con người đang thải vào khí quyển những chất khí độc hại như ( CO2, SO2 CH4 ).Làm tăng hiệu ứng nhà kính. Làm cho nhiệt độ trên Trái Đất ngày càng tăng cao.
-Sự phát triển của ngành hang không và ngành công nghiệp lạnh đang thải vào bầu khí quyển chất CFC, chất này đang làm thủng tầng ozon.
-Sự tàn phá lá phổi xanh của thế giới, các cánh rừng nguyên sinh ngày càng biến mất khỏi thế giới của chúng ta. Không có cây xanh các chất khí độc hại sẽ không được thanh lọc.
B:Biểu hiện
Đã quan trắc được:
Nhiệt độ
1906 – 2005: tăng 0,74°C
1956 – 2005: tăng 0,64°C
Băng tuyết ở Nam Cực
Từ 1978: giảm 2,7% mỗi thập kỷ
Nước biển dâng
Từ 1961: dâng 1,8mm/năm
Từ 1993: dâng 3,1mm/năm
Mưa
1900 – 2005: tăng ở phía đông châu Mỹ, Bắc Âu, Bắc Á, Trung Á; giảm ở Sahel, Nam Phi, Nam Á,…
Lũ lụt hạn hán gia tăng
Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng 3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990).
-Băng hà ở Na uy và dảy Anpơ bắt đầu rút ngay từ thế kỷ 19.
-Ở Tây âu, nhiệt độ trung bình mùa đông khoảng 10 năm đầu thế kỷ 20 tăng khoảng 2.50c. So với những năm cuối thế kỷ 19. Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0.50c.
-Theo số liệu thống
kê của tổ chức khí tượng thế giới, trong thế kỷ 20, nhiệt độ bề mặt Trái Đất đã tăng 0.70c. Đặc biệt từ năm 1976 đến nay, nhiệt độ trung bình của trái đất tăng lên rõ rệt, mỗi thập kỷ tăng khoảng 0.180c.
Các năm đầu của thế kỷ 20, nhiệt độ Trái Đất tiếp tục tăng. Nhiệt độ trung bình năm 2006 tăng so với giai đoạn 1961-1990 là 0.420c, năm 2006 cũng là năm có mùa đông ấm kỷ lục hơn một thế kỷ nay. . Theo đó, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005).
-Sự nóng lên của khí hậu Trái Đất làm cho băng ở hai cực ngày càng tan ra nhiều hơn. Băng tan ở hai cực làm cho mực nước biển ở các đại dương ngày càng dâng cao.
Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm.
C:Tác động của sự biến đổi khí hậu tới việt nam.
Nhiệt độ: tăng 0,1 – 0,3 °C /thập kỷ
Lượng mưa: không nhất quán
XTNĐBĐ: tăng 0,0138 cơn/năm
XTNĐVN: tăng 0,0439 cơn/năm
Mực nước biển: dâng 0,19cm/năm
Dự kiến biến đổi trong thế kỷ 21
Nhiệt độ: tăng 3,7 – 4,2°C
Mưa mùa mưa: tăng 3,6 – 4,6%
Mưa mùa khô: tăng 3,8 – 4,6%
Mưa năm: tăng 3,0 – 14,6%
Mực nước biển: dâng 40 – 60 cm
Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hằng năm chịu ảnh hưởng của nhiều thiên tai do thời tiết như các cơn bão nhiệt đới, hạn hán, lũ lụt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 nóng và ẩm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 lạnh và khô. Mùa mưa bão từ tháng 6 đến tháng 12. Hạn hán xảy ra trong các tháng khác nhau ở các vùng khác nhau. Miền Bắc, cao nguyên Trung Bộ, và miền Nam từ tháng 11 đến tháng 4; Bắc Trung Bộ, và Trung Bộ từ tháng 6 đến tháng 7; Nam Trung Bộ từ tháng 3 đến tháng 8.
Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí hậu trong bối cảnh BĐKH toàn cầu là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2-2008, gây thiệt hại lớn cho nông nghiệp. Số lượng ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần trong thập niên 1981 - 1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây. Đồng thời số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam, mùa bão kết thúc muộn hơn và nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn. Sau bão thường là mưa lũ, sạt lở đất, lũ quét, lũ ống. Chỉ riêng năm 2007, từ đầu tháng 10 đến ngày 15-11, miền Trung đã có 5 trận lũ lớn, làm 155 người chết, 13 người mất tích, 147 người bị thương, thiệt hại về cơ sở vật chất, hoa màu lên đến 4.434 tỉ đồng.
Theo tính toán, dự báo xu thế BĐKH ở Việt Nam những năm tới như sau: (a) Nhiệt độ trung bình có thể tăng lên 3oC vào năm 2100; (b) Lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng (từ 0% đến 10%) vào mùa mưa và giảm (từ 0% đến 5%) vào mùa khô, tính biến động của mùa tăng lên; (c) Mực nước biển trung bình trên dải bờ biển có thể dâng lên 1m vào năm 2100.
Việt Nam còn chịu ảnh hưởng bởi những cơn bão ngày càng mạnh. Mới năm gần đây ở biẻn đông việt nam xuất hiện ngáy càng nhiều những cơn báo siêu tốc. Tần suất hoạt động và hường di chuyển ngày càng bất thường làm cho sự dự báo ngày càng khó khăn. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó dự đoán thấp hơn so với ngày nay khoảng 5-7°C.
mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1 m thì sẽ gây nên hiểm họa lớn đối với các nước có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp dọc ven biển. Việt Nam là một trong những nước sẽ bị tác động lớn; khi đó sẽ có đến 10,8% dân số Việt Nam bị tác động nặng nề, do có 2 đồng bằng thấp chủ yếu là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Cửu Long.
Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các cảng biển, khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô hiệu hóa
Xin chân thành cảm ơn thầy cô và các bạn đã theo dõi
CHÚC QUÝ THẦY CÔ MẠNH KHỎE
CHÚC CÁC BẠN HỌC GIỎI
LỚP ĐỊA 09sdl
THẢO LUẬN
Trừơng đại học sư phạm đà nẵng
CÁC THÀNH VIÊN TRONG TỔ
1. BRIU LONG
2. ĐỖ HOÀNG THIÊN LIỄU
3. NGUYỄN THỊ HOA HỒNG
4. MAI CHIẾN THẮNG
5. NGUYỄN THỊ TÂN MÙI
6. NGUYỄN THỊ LEN
7. NGUYỄN THỊ NINH
8. NGUYỄN THỊ HƯỜNG
9. TRẦN THỊ THU HẰNG
10. TRẦN THỊ HÀ
11.TRẦN ĐỨC HIỂN
12.TRẦN THỊ HƯỜNG
13.TRẦN THỊ NGUYỆT
14.TRẦN VĂN NAM
15NGUYỄN THỊ THU HẰNG
Trên thế giời này việc phân chia các đới khí hậu trên thế giới có nhiều hướng khác nhau.trong đó có đới khí hậu cận nhiệt còn gọi là khí hậu á nhiệt đới.
-Ở khu vực á nhiệt đới, chế độ bức xạ và đặc điểm hoàn lưa khí quyển mùa đông giống khu vực ôn đới, mùa hạ giống khu vực nhiệt đới.
Năng lượng mặt trời tới trái đất nhận được hằng năm so với khu vực nhiệt đới giảm khoảng 20%. Mùa đông xoái thuận chiếm ưu thế, vì vậy thường xuyên có các khối khí lạnh ( khối khí ôn đới )tràn về, có khi tuyết rơi mùa hạ đường di chuyển của các xóay thuận,được di chuyển lên các vĩ đỘ cao hơn, trên các đại dương xoáy nghịch phát triển. Còn trên các lục địa thì các vùng áp thấp được hình thành do nhiệt lực và rất ít di chuyển.
:Kiểu khí hậu á nhiệt đới lục địa.
Mùa hạ nóng, mùa đông tương đối lạnh phân bố không khí theo chiều cao không bền vững.
Mùa hạ hoạt động của xoáy thuận yếu, năng lượng mặt trời dồn xuống lớn, lượng mưa ít nên thường khô hạn. Cân bằng bức xạ tương tự ở khu vực nhiệt đới, chủ yếu để đồt nóng không khí. Nhiệt độ trung bình của các tháng mùa hạ dưới 300c, cực đại có thể vượt qua 300c. Biên độ nhiệt ngày tuy có nhỏ hơn khu vực nhiệt đới nhưng vẫn còn lớn.
Mùa đông ở các vĩ độn cao của lục địa á nhiệt đới cân bằng bức xạ gần tới không, xoáy thuận hoạt động thường xuyên , di chuyển từ tây sang đông. Lượng mưa hang năm khoảng 500mm, nhưng có nơi không đạt được 300mm.
-Kiểu khí hậu á nhiệt đới bờ tây lục địa.
Đặc điểm là mùa đông ẩm, mưa nhiều và mùa hạ nóng khô, nắng nhiều. Loại khí hậu này gọi là khí hậu Địa trung hải.
-Kiểu khí hậu á nhiệt đới đại dương.
Khác với khí hậu lục địa là sự dao động của nhiệt độ không lớn, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là 120c, tháng ấm nhất là 200c.
Mùa đông xoáy thuận chiếm ưu thế, mưa rơi trong khu vực của frong nóng phụ trong xoáy thuận.
Mùa hạ đươngdi chuyển của xoáy thuận và frông cực nằm ở các vĩ độ cao hơn so với mùa đông.
-kiểu khí hậu á nhiệt đới bờ đông lục địa.
Khí hậu ở đây có tính chất gió mùa biểu hiện sõ ở bán cầu bắc. Mùa hạ nóng ẩm, mùa đông khô lạnh. Mùa đông không khí lạnh trên các lục địa ôn đới tràn xuống, nhiệt độ các tháng mùa đông rất thấp so với bờ tây
Khí hậu là mức độ trung bình của thời tiết trong một thời gian và không gian nhất định. Trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục năm vừa qua, khi công nghiệp phát triển, con người bắt đầu khai thác và sử dụng than đá, dầu lửa, khí đốt... Cùng với sự gia tăng các hoạt động công nghiệp, con người đã thải vào bầu khí quyển một lượng lớn khí các-bon (CO2), ni-tơ ô-xit, mê-tan..., làm bức xạ không thoát ra ngoài được, khiến bề mặt Trái đất nóng lên dẫn đến những biến đổi khí hậu.
Thực chất của biến đổi khí hậu hiện nay là do sự biến đổi của hệ thống tương tác đa chiều của khí quyển, thủy quyển, thạch quyển, sinh quyển và con người, trong đó 90% nguyên nhân do con người gây ra. Hàm lượng khí CO2 do con người phát thải tăng lên quá mức cho phép, tạo nên hiệu ứng nhà kính, làm bề mặt trái đất không ngừng nóng lên, gây ra xáo động môi trường sinh thái. Nhiệt độ bề mặt trái đất đang nóng dần lên, từ năm 1850 đến nay, nhiệt độ trung bình hằng năm đã tăng 0,74oC, dự báo có thể tăng thêm 1,1oC - 6,4oC vào năm 2100, mức tăng chưa từng có trong lịch sử 10.000 năm qua. Do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu nên các lớp băng tuyết sẽ bị tan nhanh trong những thập niên tới. Trong thế kỷ XX, mực nước biển tại châu á dâng lên trung bình 2,4 mm/năm, riêng thập niên vừa qua là 3,1 mm/năm, dự báo sẽ tiếp tục dâng cao hơn trong thế kỷ XXI khoảng 2,8mm - 4,3 mm/năm.
-Nguyên nhân do tự nhiên.
+Nguyên nhân của các biến động khí quyển hiện nay của khí hậu Trái Đất
Chủ yếu là tác động của mặt trời đối với khí quyển. Dao động của hoạt động của mặt trời với chu kỳ 11 hay 80 năm. Có thể dẫn tới tính chu kỳ trong hoàn lưa và khí hậu. Thêm vào đó là sự biến đổi có tính chu kỳ của tốc độ quay của Trái Đất.
+Nguyên nhân nữa là do các hoạt động của núi lửa và những trận động đất lớn do những hoạt động kiến tạo tạo nên. Trận động đất ở Haiti đã làm trục Trái Đất ngiêng tạo ra sự biến đổi của khí quyển.
+Chu kỳ hoạt động của mặt trời nhất là chu kỳ hoạt động của vành tai lửa của mặt trời. Một giả thuyết có liên quan do Henrik Svensmark đưa ra rằng các hoạt động của từ trường mặt trời làm lệch hướng các tia vũ trụ mà nó có thể ảnh hưởng đến việc tạo ra hạt nhân ngưng tụ mây và gây ảnh hưởng đến khí hậu Các nghiên cứu khác không thấy mối quan hệ giữa sự ấm lên với các tia vũ trụ trong các thập kỷ gần đây. Một nghiên cứu gần đây kết luận rằng các ảnh hưởng của tia vũ trụ lên các đám mây có hệ số 100 thấp hơn các biến đổi quan sát được trong các đám mây hoặc góp phần vào sự biến đổi khí hậu ngày nay.
Nguyên nhân do con người.
+Từ khi con người phát minh ra máy hơi nước, nền công ngiệp của thế giới đã được tạo lạp và phát triển. Ngày nay công ngiệp của thế giới phát triển với tốc độ chóng mặt, kéo theo hệ quả đó là con người đang thải vào khí quyển những chất khí độc hại như ( CO2, SO2 CH4 ).Làm tăng hiệu ứng nhà kính. Làm cho nhiệt độ trên Trái Đất ngày càng tăng cao.
-Sự phát triển của ngành hang không và ngành công nghiệp lạnh đang thải vào bầu khí quyển chất CFC, chất này đang làm thủng tầng ozon.
-Sự tàn phá lá phổi xanh của thế giới, các cánh rừng nguyên sinh ngày càng biến mất khỏi thế giới của chúng ta. Không có cây xanh các chất khí độc hại sẽ không được thanh lọc.
B:Biểu hiện
Đã quan trắc được:
Nhiệt độ
1906 – 2005: tăng 0,74°C
1956 – 2005: tăng 0,64°C
Băng tuyết ở Nam Cực
Từ 1978: giảm 2,7% mỗi thập kỷ
Nước biển dâng
Từ 1961: dâng 1,8mm/năm
Từ 1993: dâng 3,1mm/năm
Mưa
1900 – 2005: tăng ở phía đông châu Mỹ, Bắc Âu, Bắc Á, Trung Á; giảm ở Sahel, Nam Phi, Nam Á,…
Lũ lụt hạn hán gia tăng
Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng 3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990).
-Băng hà ở Na uy và dảy Anpơ bắt đầu rút ngay từ thế kỷ 19.
-Ở Tây âu, nhiệt độ trung bình mùa đông khoảng 10 năm đầu thế kỷ 20 tăng khoảng 2.50c. So với những năm cuối thế kỷ 19. Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0.50c.
-Theo số liệu thống
kê của tổ chức khí tượng thế giới, trong thế kỷ 20, nhiệt độ bề mặt Trái Đất đã tăng 0.70c. Đặc biệt từ năm 1976 đến nay, nhiệt độ trung bình của trái đất tăng lên rõ rệt, mỗi thập kỷ tăng khoảng 0.180c.
Các năm đầu của thế kỷ 20, nhiệt độ Trái Đất tiếp tục tăng. Nhiệt độ trung bình năm 2006 tăng so với giai đoạn 1961-1990 là 0.420c, năm 2006 cũng là năm có mùa đông ấm kỷ lục hơn một thế kỷ nay. . Theo đó, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005).
-Sự nóng lên của khí hậu Trái Đất làm cho băng ở hai cực ngày càng tan ra nhiều hơn. Băng tan ở hai cực làm cho mực nước biển ở các đại dương ngày càng dâng cao.
Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm.
C:Tác động của sự biến đổi khí hậu tới việt nam.
Nhiệt độ: tăng 0,1 – 0,3 °C /thập kỷ
Lượng mưa: không nhất quán
XTNĐBĐ: tăng 0,0138 cơn/năm
XTNĐVN: tăng 0,0439 cơn/năm
Mực nước biển: dâng 0,19cm/năm
Dự kiến biến đổi trong thế kỷ 21
Nhiệt độ: tăng 3,7 – 4,2°C
Mưa mùa mưa: tăng 3,6 – 4,6%
Mưa mùa khô: tăng 3,8 – 4,6%
Mưa năm: tăng 3,0 – 14,6%
Mực nước biển: dâng 40 – 60 cm
Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hằng năm chịu ảnh hưởng của nhiều thiên tai do thời tiết như các cơn bão nhiệt đới, hạn hán, lũ lụt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 nóng và ẩm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 lạnh và khô. Mùa mưa bão từ tháng 6 đến tháng 12. Hạn hán xảy ra trong các tháng khác nhau ở các vùng khác nhau. Miền Bắc, cao nguyên Trung Bộ, và miền Nam từ tháng 11 đến tháng 4; Bắc Trung Bộ, và Trung Bộ từ tháng 6 đến tháng 7; Nam Trung Bộ từ tháng 3 đến tháng 8.
Một biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí hậu trong bối cảnh BĐKH toàn cầu là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2-2008, gây thiệt hại lớn cho nông nghiệp. Số lượng ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần trong thập niên 1981 - 1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây. Đồng thời số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam, mùa bão kết thúc muộn hơn và nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn. Sau bão thường là mưa lũ, sạt lở đất, lũ quét, lũ ống. Chỉ riêng năm 2007, từ đầu tháng 10 đến ngày 15-11, miền Trung đã có 5 trận lũ lớn, làm 155 người chết, 13 người mất tích, 147 người bị thương, thiệt hại về cơ sở vật chất, hoa màu lên đến 4.434 tỉ đồng.
Theo tính toán, dự báo xu thế BĐKH ở Việt Nam những năm tới như sau: (a) Nhiệt độ trung bình có thể tăng lên 3oC vào năm 2100; (b) Lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng (từ 0% đến 10%) vào mùa mưa và giảm (từ 0% đến 5%) vào mùa khô, tính biến động của mùa tăng lên; (c) Mực nước biển trung bình trên dải bờ biển có thể dâng lên 1m vào năm 2100.
Việt Nam còn chịu ảnh hưởng bởi những cơn bão ngày càng mạnh. Mới năm gần đây ở biẻn đông việt nam xuất hiện ngáy càng nhiều những cơn báo siêu tốc. Tần suất hoạt động và hường di chuyển ngày càng bất thường làm cho sự dự báo ngày càng khó khăn. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó dự đoán thấp hơn so với ngày nay khoảng 5-7°C.
mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1 m thì sẽ gây nên hiểm họa lớn đối với các nước có vùng dân cư và đời sống kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp dọc ven biển. Việt Nam là một trong những nước sẽ bị tác động lớn; khi đó sẽ có đến 10,8% dân số Việt Nam bị tác động nặng nề, do có 2 đồng bằng thấp chủ yếu là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Cửu Long.
Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm mét, là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra vào các cảng biển, khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều nhanh chóng bị vô hiệu hóa
Xin chân thành cảm ơn thầy cô và các bạn đã theo dõi
CHÚC QUÝ THẦY CÔ MẠNH KHỎE
CHÚC CÁC BẠN HỌC GIỎI
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Đức Hiển
Dung lượng: |
Lượt tài: 5
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)