Liên minh EU

Chia sẻ bởi Trần Văn Hoàng | Ngày 28/04/2019 | 47

Chia sẻ tài liệu: Liên minh EU thuộc Địa lí 9

Nội dung tài liệu:

EU
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (tiếng Anh: European Union), viết tắt là EU, là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên chủ yếu thuộc châu Âu. EU được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). Với hơn 500 triệu dân, EU chiếm 30% (18,4 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP danh nghĩa và khoảng 22% (15,2 tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua tương đương của thế giới

Là một tổ chức quốc tế, EU hoạt động thông qua một hệ thống siêu quốc gia và liên chính phủ hỗn hợp. Trong những lĩnh vực nào đó, quyết định tạo ra thông qua thỏa thuận giữa các nước thành viên, trong khi ở những lĩnh vực khác, những cơ quan siêu quốc gia độc lập chịu trách nhiệm thực hiện mà không cần có một sự nhất trí giữa các nước thành viên. Những cơ quan quan trọng của EU bao gồm Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu, Hội đồng châu Âu, Tòa án Tư pháp châu Âu và Ngân hàng Trung ương châu Âu. Nghị viện châu Âu được bầu năm năm một lần bởi công dân các nước thành viên, theo đó quyền công dân của Liên minh châu Âu được đảm bảo.
EU có nguồn gốc từ Cộng đồng Than Thép châu Âu thành lập từ sáu nước năm 1951 và Hiệp ước Rome thành lập năm 1957 từ những nước này. Từ đó, EU lớn mạnh về số lượng thông qua việc mở rộng và về sức mạnh thông qua việc bổ sung những lĩnh vực chính sách vào thẩm quyền của EU.
Toà nhà nghị viện EU
I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP
Lịch sử


1945–1957
Robert Schuman đề xuất của Cộng đồng Than và Thép vào ngày 09 tháng 5 năm 1950.
Sau khi Thế chiến II , di chuyển theo hướng hội nhập châu Âu được xem bởi nhiều như là một thoát ra từ các hình thức cực đoan của chủ nghĩa dân tộc đã bị tàn phá lục địa. Một trong những nỗ lực đoàn kết châu Âu là Than Thép châu Âu cộng đồng đó, trong khi có khiêm tốn Mục đích của kiểm soát tập trung của các quốc gia trước đây và than ngành công nghiệp thép của các quốc gia thành viên, được công bố là "một bước đầu tiên trong các liên đoàn của châu Âu". Những người đề xuất và ủng hộ của cộng đồng bao gồm Jean Monnet , Robert Schuman , Paul Henri Spaak , và Alcide de Gasperi . Các thành viên sáng lập của Cộng đồng đã được Bỉ , Pháp , Italia , Luxembourg , việc Hà Lan , và Tây Đức .

Năm 1957 Hiệp ước Rome tạo ra thêm hai Cộng đồng Châu Âu , đáng chú ý nhất của Cộng đồng Kinh tế châu Âu .

Năm 1957, sáu nước này đã ký hiệp ước Rome , mà mở rộng sự hợp tác trước đó trong Than Thép châu Âu cộng đồng (ECSC) và tạo ra các tế Cộng đồng châu Âu (EEC) thành lập một liên minh thuế quan và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (Euratom) hợp tác trong việc phát triển năng lượng hạt nhân .
1958-1972

Hai cộng đồng mới được tạo ra riêng biệt từ ECSC, mặc dù họ đã chia sẻ cùng các tòa án và hội chung. Các giám đốc điều hành của các cộng đồng mới được gọi là các uỷ ban, như trái ngược với các "cao quan". Các EEC đã được lãnh đạo bởi Walter Hallstein ( Hallstein Ủy ban ) và Euratom đã được lãnh đạo bởi Louis Armand ( Armand Ủy ban ) và sau đó Etienne Hirsch . Euratom sẽ tích hợp các lĩnh vực năng lượng hạt nhân trong khi EEC sẽ phát triển một liên minh thuế quan giữa các thành viên.
Trong suốt những năm 1960, căng thẳng bắt đầu để hiển thị với Pháp tìm cách giới hạn quyền lực siêu quốc gia. Tuy nhiên, vào năm 1965 một thỏa thuận đã đạt được và vì thế năm 1967 của Hiệp ước Hợp nhất đã được ký kết tại Brussels. Nó đã có hiệu lực ngày 1 tháng Bảy năm 1967 và tạo ra một bộ duy nhất của các tổ chức trong ba cộng đồng, được gọi chung là các cộng đồng châu Âu (EC), mặc dù thông thường cũng như Cộng đồng châu Âu. Jean Rey chủ quan các hợp nhất đầu tiên Commission ( Ủy ban Rey ).
I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP
1973-1993

Năm 1973, các cộng đồng mở rộng để bao gồm Đan Mạch , Ireland , và Anh Quốc. Na Uy đã thương lượng để tham gia cùng một lúc, nhưng cử tri Na Uy đã bác bỏ các thành viên trong trưng cầu dân ý và vì vậy Na Uy vẫn ở bên ngoài. Năm 1979, trực tiếp đầu tiên, bầu cử dân chủ với Quốc hội Châu Âu đã được tổ chức.
Hy Lạp gia nhập vào năm 1981, và Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vào năm 1986. Năm 1985, Hiệp định Schengen dẫn đường hướng tới việc tạo ra các biên giới mở mà không cần hộ chiếu điều khiển từ hầu hết các quốc gia thành viên và một số thành viên các tiểu bang không. Trong năm 1986, các cờ châu Âu bắt đầu được sử dụng bởi các cộng đồng và các đơn châu Âu luật đã được ký kết.
Năm 1990, sau sự sụp đổ của Bức Màn Sắt , cựu Đông Đức đã trở thành một phần của cộng đồng như một phần của Đức vừa được thống nhất Với sự mở rộng về phía Đông và Trung Âu về chương trình nghị sự, các tiêu chí Copenhagen cho các thành viên ứng cử viên tham gia Liên minh châu Âu đã đồng ý.
I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP
1993-2010

The introduction of the euro in 2002 replaced several national currencies. Việc giới thiệu của đồng euro trong năm 2002 thay thế một số loại tiền tệ quốc gia.

Liên minh châu Âu đã chính thức thành lập khi Hiệp ước Maastricht hiệu lực từ ngày 01 tháng 11 1993, và vào năm 1995 , Áo , Thụy Điển , và Phần Lan gia nhập EU vừa được thành lập. Trong năm 2002, đồng euro thay thế giấy, tiền tệ quốc gia tại 12 của các nước thành viên. Kể từ đó, các khu vực đồng euro đã tăng lên bao gồm mười sáu quốc gia. Năm 2004, EU đã thấy lớn nhất mở rộng của nó cho đến nay khi Malta , Cyprus , Slovenia , Estonia , Latvia , Lithuania , Ba Lan , các nước Cộng hoà Séc , Tiếng Slovak Republic , và Hungary gia nhập Liên minh.

Ngày 1 tháng Giêng năm 2007, Romania và Bulgaria trở thành thành viên EU mới nhất nàyTrong cùng năm Slovenia chấp nhận đồng euro, theo sau vào năm 2008 bởi Cyprus và Malta , và Slovakia năm 2009. Trong tháng sáu năm 2009, cuộc bầu cử Quốc hội năm 2009 đã được tổ chức hàng đầu cho một đổi mới Barroso của Ủy ban Tổng thống, và trong tháng bảy 2009 Iceland chính thức áp dụng cho các thành viên EU.
Ngày 01 tháng mười hai năm 2009, các Hiệp ước Lisbon có hiệu lực và cải cách nhiều khía cạnh của EUĐặc biệt nó làm thay đổi cấu trúc pháp lý của Liên minh châu Âu, hợp nhất ba trụ cột của EU hệ thống vào một thực thể pháp lý cấp quyền với tư cách pháp nhân , và nó tạo ra một cố Chủ tịch Hội đồng châu Âu , lần đầu tiên trong số đó là Herman Van Rompuy , và một tăng cường Đại diện cấp cao , Catherine Ashton .
I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP
II. Thành Viên
Thành viên

Các thành viên và ứng viên Liên minh châu Âu giai đoạn 2004-2007
Lịch sử của Liên Minh Châu Âu bắt đầu từ Đệ nhị Thế chiến. Có thể nói rằng nguyện vọng ngăn ngừa chiến tranh tàn phá tái diễn đã đẩy mạnh sự hội nhập châu Âu. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman là người đã nêu ra ý tưởng và đề xuất lần đầu tiên trong một bài phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng 5 năm 1950. Cũng chính ngày này là ngày mà hiện nay được coi là ngày sinh nhật của EU và được kỉ niệm hàng năm là "Ngày Châu Âu". Ban đầu, EU bao gồm 6 quốc gia thành viên là: Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp, Hà Lan. Năm 1973, tăng lên thành gồm 9 quốc gia thành viên. Năm 1981, tăng lên thành 10. Năm 1986, tăng lên thành 12. Năm 1995, tăng lên thành 15. Năm 2004, tăng lên thành 25. Năm 2007 tăng lên thành 27.

Hiện nay, EU có diện tích là 4.422.773 km² với dân số là 492,9 triệu người (2006) ; với tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (~15.7 nghìn tỉ USD) trong năm 2007. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành viên của Liên minh châu Âu.

Vẫn còn Croatia(có thể được kết nạp vào năm 2011), Thổ Nhĩ Kỳ(có thể kết nạp vào năm 2013), Albania, Bosnia, Macedonia, Montenegro, Serbia chưa gia nhập Liên minh châu Âu.
Sau đây là danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm gia nhập.

1951: Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp, Hà Lan
1973: Đan Mạch, Ireland, Anh
1981: Hy Lạp
1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển
Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Cộng hòa Síp
Ngày 1/1/2007: Romania, Bungary

II. Thành Viên
III. Tác động đến Việt Nam
Quyết định của EC gây tác động tiêu cực đến các DN Việt Nam Ngày 06/10/2006, sau hơn 01 năm điều tra, Ủy ban Châu Âu (EC) đã ra quyết định áp thuế chống bán phá giá 10% đối với giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU. Theo quyết định này, thời hạn áp dụng của biện pháp chống bán phá giá là hai năm và sẽ hết hạn vào ngày 07/10/2008. Cũng trong vụ này, giày mũ da của Trung Quốc đã bị áp thuế 16,5%.

Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Thành Biên, Thứ trưởng Bộ Công thương cho biết, Việt Nam rất thất vọng về quyết định này của EC. Quyết định rà soát hoàn toàn trái với sự mong đợi của đông đảo người tiêu dùng cũng như của nhiều doanh nghiệp EU và không phản ánh quan điểm của đa số thành viên EU.
Trong hai năm vừa qua, giày mũ da của Việt Nam xuất khẩu sang EU đã giảm sút một cách đáng kể. Việc áp thuế chống bán phá giá không những gây tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp trong ngành da giày mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới công ăn việc làm của hơn nửa triệu lao động Việt Nam, trong đó chủ yếu là lao động nữ.
Việc EC quyết định tiến hành rà soát thuế chống bán phá giá sẽ càng ảnh hưởng nghiêm trọng hơn tới ngành công nghiệp da giày của Việt Nam trong bối cảnh tháng 6/2008 vừa qua, Liên minh châu Âu đã đưa ngành da giày Việt Nam ra khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009-2011.
Trong khi Việt Nam đang làm hết sức để tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư châu Âu, cũng như thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác từ các nước châu Âu, việc EC quyết định tiến hành rà soát đối với sản phẩm giầy mũ da xuất khẩu từ Việt Nam sẽ gây ra những quan ngại cũng như tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh và đầu tư giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác châu Âu.
Việc tiến hành rà soát không những chỉ có tác động tiêu cực ở Việt Nam mà ngay cả tại Liên minh châu Âu, hoạt động kinh doanh, sản xuất của nhiều doanh nghiệp và đặc biệt là quyền lợi của người tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng.
EC cần tiến hành việc rà soát một cách công bằng và nhanh chóng, không gia hạn áp thuế sau rà soát, giúp cho doanh nghiệp Việt Nam và EU sớm ổn định sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng ở EU lại có điều kiện mua giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam với giá cả hợp lý, phù hợp với thị hiếu và khả năng của họ.

Được biết dư luận chung ở EU không đồng tình với việc tiến hành rà soát. Xin Thứ trưởng cho biết thông tin về vấn đề này như thế nào?

- Như đã nói ở trên tại cuộc họp ngày 17/9/2008 của Ủy ban tư vấn về chống bán phá giá của EU, 15 trong tổng số 27 nước thành viên của EU đã bỏ phiếu chống lại việc rà soát.
Ngay sau khi EC có những động thái đầu tiên về việc sẽ tiến hành rà soát, chiều ngày 29/9/2008, Liên minh giày châu Âu (European Footwear Alliance) đã ra thông cáo báo chí thể hiện sự thất vọng trước quyết định của EC sẽ tiến hành rà soát cuối kỳ biện pháp áp thuế chống bán phá giá giày mũ da Trung Quốc và Việt Nam. Liên minh giày châu Âu cho rằng việc rà soát đi ngược lại mong muốn của đa số nước thành viên EU và gây tổn hại cho quyền lợi của người tiêu dùng và ngành giày của chính châu Âu.
Điều này cho thấy dư luận chung tại Liên minh châu Âu không đồng tình với việc áp dụng và tiến hành rà soát thuế chống bán phá giá trong trường hợp này.
III. Tác động đến Việt Nam
EU là thị trường xuất khẩu thứ hai của các mặt hàng Việt Nam (sau Mỹ) và là thị trường nhập khẩu lớn thứ sáu của Việt Nam. EU cũng là nhà đầu tư lớn thứ hai trên phương diện nguồn vốn triển khai.

Điều này cho thấy cam kết mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam. Tuy nhiên vẫn có những nguy cơ tiềm tàng đối với tính phát triển bền vững. Nhận định này được trích từ “Sách xanh” do Phái đoàn Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam công bố ngày 29/5. 

Đây là bản báo cáo do Nhóm các tham tán thương mại EU thực hiện. Báo cáo phân tích về môi trường đầu tư, thương mại và kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua. Theo báo cáo, các nhà đầu tư Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục đầu tư mạnh mẽ nguồn vốn cũng như công nghệ mới nhất vào Việt Nam.

Xét về nguồn vốn FDI được triển khai tại Việt Nam, EU hiện đang đứng thứ hai. Báo cáo cho thấy EU là thị trường lớn thứ hai đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa Việt Nam đang bán lượng hàng lớn hơn rất nhiều so với lượng hàng nhập khẩu từ châu Âu. Các công ty châu Âu tiếp tục hỗ trợ cho sự tăng trưởng của Việt Nam.

Bản báo cáo còn đưa ra những phân tích ngắn gọn nhưng hiệu quả về những ngành nghề khu vực quan trọng của Việt Nam. Các chuyên gia EU cũng đưa ra những gợi ý, chỉ ra những cơ hội, cũng như những trở ngại mà các nhà đầu tư nói chung, đặc biệt là nhà đầu tư châu Âu đang gặp phải.
III. Tác động đến Việt Nam
Báo cáo đã đưa ra những cảnh báo về tính thiếu đa dạng trong cơ cấu xuất khẩu sang thị trường EU, mà chủ yếu tập trung vào một nhóm ngành như dệt may và may mặc, giày da, hải sản, cà phê và đồ gỗ. Điều này làm cho xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU “khó được bảo vệ”.

Đại sứ, Trưởng phái đoàn Uỷ ban châu Âu Markus Cornaro tại Việt Nam đưa ra những ví dụ cụ thể về những thách thức trong việc phải đa dạng hoá những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chẳng hạn, ngành dệt may - một ngành xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam - vẫn đang còn phụ thuộc rất nhiều không chỉ vào thị trường xuất khẩu mà còn vào việc nhập khẩu những nguyên liệu thô.

Một tình hình tương tự cũng được báo cáo chỉ ra trong ngành giày dép của Việt Nam. Tỉ lệ phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài vào trong ngành da giày của Việt Nam lên đến 85%. Điều này cũng thể hiện sự dễ tổn thương của ngành công nghiệp này khi xuất khẩu sang thị trường khác. Bằng chứng cụ thể nhất là vụ kiện chống phá giá từ EU áp đặt trong năm ngoái.

Để giảm bớt sự phụ thuộc và dễ thay đổi của môi trường bên ngoài, báo cáo gợi ý cho các nhà sản xuất của Việt Nam cần thực hiện hai bước: một là, dịch chuyển lên thang giá trị cao hơn trong quá trình sản xuất (bao hàm cả việc lưu ý bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ); và hai là, cần có thương hiệu mạnh ở nước ngoài.
III. Tác động đến Việt Nam
2 cuộc họp hội nghị của EU ở Đức và TBN
Quyết định của EC gây tác động tiêu cực đến các DN Việt Nam. Ngày 06/10/2006, sau hơn 01 năm điều tra, Ủy ban Châu Âu (EC) đã ra quyết định áp thuế chống bán phá giá 10% đối với giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU. Theo quyết định này, thời hạn áp dụng của biện pháp chống bán phá giá là hai năm và sẽ hết hạn vào ngày 07/10/2008. Cũng trong vụ này, giày mũ da của Trung Quốc đã bị áp thuế 16,5%.
 
Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Thành Biên, Thứ trưởng Bộ Công thương cho biết, Việt Nam rất thất vọng về quyết định này của EC. Quyết định rà soát hoàn toàn trái với sự mong đợi của đông đảo người tiêu dùng cũng như của nhiều doanh nghiệp EU và không phản ánh quan điểm của đa số thành viên EU.
Trong hai năm vừa qua, giày mũ da của Việt Nam xuất khẩu sang EU đã giảm sút một cách đáng kể. Việc áp thuế chống bán phá giá không những gây tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp trong ngành da giày mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới công ăn việc làm của hơn nửa triệu lao động Việt Nam, trong đó chủ yếu là lao động nữ.
Việc EC quyết định tiến hành rà soát thuế chống bán phá giá sẽ càng ảnh hưởng nghiêm trọng hơn tới ngành công nghiệp da giày của Việt Nam trong bối cảnh tháng 6/2008 vừa qua, Liên minh châu Âu đã đưa ngành da giày Việt Nam ra khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009-2011.
Trong khi Việt Nam đang làm hết sức để tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư châu Âu, cũng như thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác từ các nước châu Âu, việc EC quyết định tiến hành rà soát đối với sản phẩm giầy mũ da xuất khẩu từ Việt Nam sẽ gây ra những quan ngại cũng như tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh và đầu tư giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác châu Âu.
Việc tiến hành rà soát không những chỉ có tác động tiêu cực ở Việt Nam mà ngay cả tại Liên minh châu Âu, hoạt động kinh doanh, sản xuất của nhiều doanh nghiệp và đặc biệt là quyền lợi của người tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng.
III. Tác động đến Việt Nam
EC cần tiến hành việc rà soát một cách công bằng và nhanh chóng, không gia hạn áp thuế sau rà soát, giúp cho doanh nghiệp Việt Nam và EU sớm ổn định sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng ở EU lại có điều kiện mua giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam với giá cả hợp lý, phù hợp với thị hiếu và khả năng của họ.

Được biết dư luận chung ở EU không đồng tình với việc tiến hành rà soát. Xin Thứ trưởng cho biết thông tin về vấn đề này như thế nào?

- Như đã nói ở trên tại cuộc họp ngày 17/9/2008 của Ủy ban tư vấn về chống bán phá giá của EU, 15 trong tổng số 27 nước thành viên của EU đã bỏ phiếu chống lại việc rà soát.
Ngay sau khi EC có những động thái đầu tiên về việc sẽ tiến hành rà soát, chiều ngày 29/9/2008, Liên minh giày châu Âu (European Footwear Alliance) đã ra thông cáo báo chí thể hiện sự thất vọng trước quyết định của EC sẽ tiến hành rà soát cuối kỳ biện pháp áp thuế chống bán phá giá giày mũ da Trung Quốc và Việt Nam. Liên minh giày châu Âu cho rằng việc rà soát đi ngược lại mong muốn của đa số nước thành viên EU và gây tổn hại cho quyền lợi của người tiêu dùng và ngành giày của chính châu Âu.
Điều này cho thấy dư luận chung tại Liên minh châu Âu không đồng tình với việc áp dụng và tiến hành rà soát thuế chống bán phá giá trong trường hợp này.
III. Tác động đến Việt Nam
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu qua Châu Âu như: Giày dép, Quần Áo, Xe Đạp
EU là thị trường xuất khẩu thứ hai của các mặt hàng Việt Nam (sau Mỹ) và là thị trường nhập khẩu lớn thứ sáu của Việt Nam. EU cũng là nhà đầu tư lớn thứ hai trên phương diện nguồn vốn triển khai.

Điều này cho thấy cam kết mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam. Tuy nhiên vẫn có những nguy cơ tiềm tàng đối với tính phát triển bền vững. Nhận định này được trích từ “Sách xanh” do Phái đoàn Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam công bố ngày 29/5. 

Đây là bản báo cáo do Nhóm các tham tán thương mại EU thực hiện. Báo cáo phân tích về môi trường đầu tư, thương mại và kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua. Theo báo cáo, các nhà đầu tư Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục đầu tư mạnh mẽ nguồn vốn cũng như công nghệ mới nhất vào Việt Nam.

Xét về nguồn vốn FDI được triển khai tại Việt Nam, EU hiện đang đứng thứ hai. Báo cáo cho thấy EU là thị trường lớn thứ hai đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa Việt Nam đang bán lượng hàng lớn hơn rất nhiều so với lượng hàng nhập khẩu từ châu Âu. Các công ty châu Âu tiếp tục hỗ trợ cho sự tăng trưởng của Việt Nam.

Bản báo cáo còn đưa ra những phân tích ngắn gọn nhưng hiệu quả về những ngành nghề khu vực quan trọng của Việt Nam. Các chuyên gia EU cũng đưa ra những gợi ý, chỉ ra những cơ hội, cũng như những trở ngại mà các nhà đầu tư nói chung, đặc biệt là nhà đầu tư châu Âu đang gặp phải.

Báo cáo đã đưa ra những cảnh báo về tính thiếu đa dạng trong cơ cấu xuất khẩu sang thị trường EU, mà chủ yếu tập trung vào một nhóm ngành như dệt may và may mặc, giày da, hải sản, cà phê và đồ gỗ. Điều này làm cho xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU “khó được bảo vệ”.
III. Tác động đến Việt Nam
III. Tác động đến Việt Nam
Đại sứ, Trưởng phái đoàn Uỷ ban châu Âu Markus Cornaro tại Việt Nam đưa ra những ví dụ cụ thể về những thách thức trong việc phải đa dạng hoá những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chẳng hạn, ngành dệt may - một ngành xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam - vẫn đang còn phụ thuộc rất nhiều không chỉ vào thị trường xuất khẩu mà còn vào việc nhập khẩu những nguyên liệu thô.

Một tình hình tương tự cũng được báo cáo chỉ ra trong ngành giày dép của Việt Nam. Tỉ lệ phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài vào trong ngành da giày của Việt Nam lên đến 85%. Điều này cũng thể hiện sự dễ tổn thương của ngành công nghiệp này khi xuất khẩu sang thị trường khác. Bằng chứng cụ thể nhất là vụ kiện chống phá giá từ EU áp đặt trong năm ngoái.

Để giảm bớt sự phụ thuộc và dễ thay đổi của môi trường bên ngoài, báo cáo gợi ý cho các nhà sản xuất của Việt Nam cần thực hiện hai bước: một là, dịch chuyển lên thang giá trị cao hơn trong quá trình sản xuất (bao hàm cả việc lưu ý bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ); và hai là, cần có thương hiệu mạnh ở nước ngoài.

Ngành thuỷ sản cũng được báo cáo nhìn nhận có tiềm năng xuất khẩu, riêng trong năm ngoái xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường châu Âu tăng 7%. Tuy nhiên, Đại sứ Markus Cornaro cho rằng vấn đề đang đặt ra là tính bền vững của ngành này, xét tới năng lực sản xuất, năng lực xác định và loại trừ những tồn dư hoá chất có hại cho sức khoẻ và xét đến thương hiệu của chính ngành này của Việt Nam trên thị trường thế giới.
III. Tác động đến Việt Nam
Tương tự, một thách thức không nhỏ đối với ngành nông sản của Việt Nam cũng đang diễn ra. Tỉ lệ cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường trong những năm qua tăng trưởng 9% và kim ngạch đạt 610 triệu Euro. Tuy nhiên ngành này đang phải đối mặt với năng lực hạn chế về chế biến với lượng sản phẩm bị mất lên 20% trong tất cả các giai đoạn sau khi thu hoạch cũng như khả năng truy nguyên nguồn gốc của sản phẩm. Đại sứ Markus Cornaro nhấn mạnh khả năng truy nguyên nguồn gốc của sản phẩm là rất có ý nghĩa khi Việt Nam tiếp cận đến các thị trường khó tính.

Một lĩnh vực nữa cũng được báo cáo đề cập và được EU rất quan tâm là viễn thông. Mỗi năm, trung bình ngành viễn thông Việt Nam đã tăng trưởng 20% với số lượng thuê bao tính tới thời điểm hiện nay là 27 triệu thuê bao. Báo cáo chỉ ra: ngành viễn thông Việt Nam mặc dù phát triển rất nhanh nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề phải giải quyết như thiếu ý tưởng cải tiến hiện đại, mức giá thành cao, lượng băng thông truy cập còn tắc nghẽn. Vấn đề này cần được giải quyết khi tới đây Chính phủ triển khai quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp viễn thông.

Lĩnh vực tiếp theo được nhấn mạnh là năng lượng của Việt Nam. Các nước EU, đặc biệt là Thụy Điển, Đức, Hà Lan tỏ ra rất quan tâm đến lĩnh vực này. Báo cáo khuyến nghị Chính phủ Việt Nam cần phải có khung hợp tác pháp lý đơn giản hơn trong lĩnh vực này.

III. Tác động đến Việt Nam
Một điểm yếu khác nữa Việt Nam đang gặp phải là đảm bảo tuân thủ quyền SHTT cũng như những vấn đề liên quan đến hệ thống thuế của Việt Nam. Báo cáo cũng dành 2 chương đề cập đến hệ thống thuế và ngành rượu, chất giải khát có cồn. Đại sứ Markus Cornaro dẫn một câu thành ngữ của Pháp, dịch nguyên nghĩa: “Thuế quá cao sẽ tiêu diệt lợi nhuận”. Theo Đại sứ, mặt hàng rượu và đồ uống có cồn của Việt Nam hiện mức thuế quá cao, khoảng 200%. Chính điều đó dẫn đến hệ quả 25% sản phẩm rượu, đồ uống có cồn bán tại Việt Nam là hàng giả.

Về lĩnh vực tài chính, báo cáo cho biết các nhà đầu tư EU rất quan tâm bởi họ có khả năng chuyên môn cao để giúp Việt Nam trong lĩnh vực này. Và họ đặt nhiều hy vọng vào kế hoạch cải cách ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Trả lời câu hỏi của báo chí: liệu những đánh giá nhận xét về môi trường kinh doanh của Việt Nam được công bố trong báo cáo có tác động đến việc EU xem xét quy chế nền kinh tế thị trường cho Việt Nam hay không, Đại sứ Markus Cornaro cho rằng nền kinh tế thị trường là một khái niệm chung và không bị gắn quá chặt với việc có được cấp quy chế đó hay không.

Đại sứ giải thích: khi chúng ta gắn với điều đó thì chúng ta lại nghĩ tới những biện pháp bảo hộ. “Chúng tôi xem Việt Nam như nền kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Chúng tôi đang làm việc chặt chẽ với Cục Cạnh tranh-Bộ Thương mại Việt Nam để xét những diễn biến liên quan đến 5 tiêu chí mà EU sử dụng để trao quy chế kinh tế thị trường. Mục đích tham vọng của hai phía đó là làm sao để Việt Nam đáp ứng được quy chế này sớm hơn theo lịch trình WTO là 12 năm”, Đại sứ nói.
Lượng xuất khẩu hải sản của nước ta qua Châu Âu
VN trước 6 tác động lớn từ khủng hoảng nợ châu Âu

Xuất khẩu khó khăn kéo GDP sụt 1,7%

Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.
Về vấn đề này, một số quan điểm cho rằng hàng hóa giá rẻ là ưu thế của Việt Nam do đó cuộc khủng hoảng nợ công sẽ giúp hướng người dân châu Âu chuyển từ hàng hóa cao và trung cấp sang hàng hóa do Việt Nam sản xuất.
Tuy nhiên, những số liệu tính toán từ mô hình ước lượng cho thấy, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu sẽ có những tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam, với mức suy giảm khoảng 1,7% GDP trong năm 2010, cao thứ ba chỉ sau Trung Quốc (2,8%) và Anh (1,9%).
Vì vậy, nếu không có những chính sách phản ứng kịp thời hỗ trợ xuất khẩu thì triển vọng trung hạn đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn.
III. Tác động đến Việt Nam
2. Lãi suất cao, doanh nghiệp thiệt nặng

Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%.Ngược lại ở Việt Nam, lãi suất huy động lẫn lãi suất cho vay vẫn đứng ở mức cao. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14 – 16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5 – 17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Nếu tính đến lạm phát ước cho năm 2010 là dưới 10%, doanh nghiệp phải đạt mức tỷ suất lợi nhuận trên 24 – 27%, là mức cao so với tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân của các ngành trong năm 2009 (khoảng 20%).

3. FDI suy giảm

Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra 2 tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu.
Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ.
III. Tác động đến Việt Nam
4. Giá vàng bùng nổ hút vốn đầu tư

Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, bạch kim và bạc.
Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra. Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác.
Điều này sẽ tác động xấu đến đầu tư toàn thế giới và Việt Nam bởi một khi vàng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục đầu tư của các tổ chức thì cũng đồng nghĩa với việc các danh mục khác như cổ phiếu, trái phiếu sẽ bị giảm mạnh. Như vậy, luồng vốn đầu tư gián tiếp càng trở nên hạn chế.
III. Tác động đến Việt Nam
5. Bảo hiểm rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên

Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm.
Hệ quả là Việt Nam với tỷ lệ nợ cao, thâm hụt ngân sách triển miên đang bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào mục rủi ro cao, với mức CDS là 263, xếp ngay trên Hy Lạp (321) và Iceland (466). Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài.

6. Tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào cuối năm

Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD.
Sang tháng 6, tỷ giá USD/Euro chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu tháng Ba, do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, đồng USD tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Việt Nam đang gia tăng, cộng với thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia tăng sức ép tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010.
III. Tác động đến Việt Nam
Đồng tiền EURO
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài thuyết trình của nhóm 1.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Trần Văn Hoàng
Dung lượng: | Lượt tài: 5
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)