Tham khao ve mot so tac pham nguyen binh khiem
Chia sẻ bởi Nguyễn Xuân Bộ |
Ngày 12/10/2018 |
49
Chia sẻ tài liệu: tham khao ve mot so tac pham nguyen binh khiem thuộc Tư liệu tham khảo
Nội dung tài liệu:
( ( ((
I/Sơ lược về tác giả:
Nguyễn bỉnh khiêm: sinh năm 1491-1585
Quê làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, thành phố Hải Phòng nay thuộc huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng . Từng là học trò của bảng nhãn Lương Đắc Bằng, đỗ trạng nguyên năm 1535 và ra làm quan dưới triều nhà mạc
Nguyễn Bỉnh Kiêm sống gần chọn thế kỉ XVI, trong thời kì vô cùng rối reng.
Chiến tranh thôn tính giữa bắc triều và nam triều kéo dài hơn nửa thế kỉ .trước thực trạng thời thế ông đã chọn con đường “vô vi” rút khỏi chính sự về quê ở ẩn lúc 53 tuổi. Ông chọn chữ NHÀN chờ thời thế trôi qua, như quy luật vân hành của vũ trụ để tu dưỡng đạo đức bản thân để hưởng thụ những gì ông đáng được hưởng trên cõi dới. Uyên thâm hán học vô cùng điêu luyện và uẩn súc
+*****+
Xóm tự nhiên, một cái lều
Qua ngày tháng lọ là nhiều?
Gió cuốn rèm thay chổi quét.
Trăng cài cửa kéo đèn treo!
Cơm ăn chẳng quản dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm thêu!
Tựa gốc cây ngồi hóng mát,
Đìu hiu ta hãy một đìu hiu!
( ( (
Người dữ thì ta miễn có lành
Làm chi đo đắn nhọc đua tranh
Cửa vương nhện, nhân vì vắng
Thớt quyến ruồi ấy bởi tanh
Nhiều khách xuân xanh trường phú quý?
Mấy người đầu bạc hội Kì Anh?
Đã ngoài mọi việc, chang còn ước,
Ước một tối hiền, chúa thanh minh
( ( (
Nước non nào phải của ai đâu?
Nhiều, ít, công, tư, cũng mặc dầu!
Có, chẳng giữ giàng: không, chẳng lụy,
Được, chăng háo hức: mất chăng âu
Anh hùng người lấy tài làm trọng
Ẩn dật ta hay thú có mầu
Gẫm ấy ai phò vạc Hán
Đồng Giang, rủ một cần câu
( ( (
Tóc đã thưa, răng đã mòn
Việc nhà đã phó mặc dâu con
Bàn cờ cuộc rượu vầy hoa trúc
Bó củi cần câu trốn nước non
Nhàn được thú vui hay nấn ná
Bữa chiều muối bể chứa tươi ngon
Chín mươi thì kể xuân đã muộn
Xuân ấy qua thì xuân khác còn
( ( (
Dầu trí dầu ngu sinh phải thời
Ấy là phúc cả đứng nam nhi
No long ấm cật dời Nghêu Thuấn
Gối gác nằm sương, thuở Tấn Tùy
Khách ở vườn đào cao mấy trượng
Người theo thói tục thấp nhiều bề
Vật vờ thành thị làm chi nữa
Ít tiếng khen thì vắng tiếng chê
( ( (
Lấy chăng ai cấm mặc ai dùng
Hễ của tự nhiên ấy của chung
Non nước có mầu long khách chứa
Trúc mai làm bạn hừng thơ nồng
Chốn điền viên cũ dầu thong thả
Đạo thánh hiền xưa luống chốc mòng
Song viết chớ rằng đã hổ
Dấu đâu thì cũng có xuân phong
( ((
Chửa dễ ai là bậc thích ca
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì
Lòng vô sự trăng in nước
Của thảng lai gió thổi hoa
Kìa khách xuân xanh khi trẻ
Mấy người đầu bạc tuổi già
Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách
Được thú ta đà có thú ta
( ( (
Cỏ hoa xuân đến cùng đầm hâm
Thu muộn ai hay trúc có thơm
Thèm nỡ phụ canh cua rốc
Lạnh đã quen đắp ổ rơm
Của ta còn để hai kho sách
Ơn chúa chăng quên một bữa cơm
Có thủa lên lầu ngồi đợi nguyệt
Một mình uốc lại một mình kham
( ( (
Tính thơ dại cũ hãy còn đeo
Nẻo được nhàn thì kẻo có nghèo
Bến nguyệt thuyền kề hai bãi mĩa
Am mây cửa khép một cần pheo
Cá tôm tối chác bên kia bến
Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo
Khách bđến hỏi nào song viết
Nữa rằng còn một túi thơ treo
( ( (
Lọ là thành thị, lọ lâm tuyền
Được thú thì hơn miễn phận yên
Trẻ bất tài nêm kém bạn
Già vô sự ấy là tiên
Đồ thư một cuốn, nhà làm của
Phong nguyện năm hồ khách nổi thuyền
Dầu nhẫn chê khen dầu miệng thế
Cơ dầu tạo hóa mặc tự nhiên
( ( (
Giầu mặc phận khó đâu bì
Đọ thanh nhàn khá nhất nhì
Vếu váo câu thơ cũ rich
Khề khà chén rượu băng xì
Trăng thanh gió mát là tương thức
Nước biếc non xanh ấy cố tri
Thế sự đôi co, dầu thế sự
( ( (
Rũ không thay nhảy chẳng hề chi
Giàu khó đành hay chỉn phận mình
Mấy đường gai góc biếng đua tranh
Cơm ăn chẳng quản mùi xa bạc
Áo
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Xuân Bộ
Dung lượng: 165,00KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)