Sinh ly dong vat
Chia sẻ bởi Dong Anh Luat |
Ngày 23/10/2018 |
30
Chia sẻ tài liệu: sinh ly dong vat thuộc Hóa học 8
Nội dung tài liệu:
SYNAP
Hình 1: Biểu đồ về synap chỉ rõ các yếu tố tiền và hậu synap
khe synap
tế bào tiền synap
túi synap
button
giai đoạn cuối tiền synap
tế bào hậu synap
đường truyền
Synap
Tại vị trí cuối cùng của sợi xảy ra xảy ra hiện tượng chuyên hóa đặc biệt của tế bào được gọi là synap.
Dây thần kinh synap là cầu nối đặc biệt truyền các xung lực thần kinh từ màng tế bào tiền synap đến màng tế bào hậu synap thông qua các chất dẫn truyền thần kinh và enzyme.
Các synap hoạt động như công tắc đóng mở và máy lọc các đường truyền thông tin.
Các dạng Synap
Các synap nối với phần thân sợi trục – axosomatic
Các synap nối với phần nhánh sợi trục – axodendritic
Các synap nối với sợi trục – axoaxonic
Các nút trên sợi trục được gọi là yếu tố tiền synap và yếu tố hậu synap.
Các dạng Synap
Nhánh sợi trục – synap nối giữa thân của neuron này với nhánh của neuron khác.
Thân sợi trục – synap nối giữa thân của neuron này với thân của neuron khác.
Một số loại khác như:
Axoaxonic – synap nối giữa sợi trục và sợi trục
Dendrodendritic – synap nối giữa nhánh và nhánh
Dendrosomatic – synap nối giữa nhánh và thân sợi trục
Tế bào thần kinh tiền synap
Là các tế bào thần kinh dẫn các xung thần kinh đến chỗ nối synap.
Tại màng tế bào thần kinh tiền synap phóng thích các chất dẫn truyền thần kinh vào các xung thần kinh.
Các chất dẫn truyền được tiết ra từ tế bào thần kinh tiền synap kích thích các tế bào thần kinh hậu synap.
Tế bào thần kinh hậu synap
Là các tế bào thần kinh dẫn các xung thần kinh ra xa chỗ nối synapse.
Tại màng tế bào thần kinh hậu synap chứa các chất dẫn truyền thần kinh do tế bào tiền synap tiết ra.
Sự tích lũy các chất dẫn truyền thần kinh cho hoạt động của các tế bào thần kinh hậu synap là sự tổng hợp theo không gian hoặc thời gian.
Hình 3. Khảo sát hìng dạng synap dưới kính hiển vi điện tử cho thấy các yếu tố tiền và hậu synap có khả năng chuyên hóa đặc biệt. Ngoài ra có thể quan sát thấy sự tích lũy các ty thể và sự tạo thành các túi synap trên màng tế bào tiền synap
Sự truyền thông tin
Sự truyền đạt thông tin giữa các neuron được chia làm hai dạng:
Phân kỳ: khi một neuron phân nhánh nối với nhiều neuron khác.
Hội tụ: khi nhiều tế bào thần kinh hậu synapse hội tụ tại một synap.
Synap phân kỳ
Cấu nối liên kết giữa một tiền synap với hai hay nhiều neuron hậu synap (với tỷ lệ nhỏ hơn một).
Sự kích thích neuron hậu synap phụ thuộc vào thời gian các tế bào tiền synap tích lũy nhanh các chất dẫn truyền thần kinh (sự tổng hợp theo thời gian).
Synap phân kỳ
Synap hội tụ
Cầu nối liên kết giữa hai hay nhiều tế bào tiền synap và một tế bào hậu synap (với tỷ lệ lớn hơn 1).
Sự kích thích tế bào hậu synap phụ thuộc vào sự tích lũy các chất dẫn truyền thần kinh của các tế bào tiền synap (sự tổng hợp theo không gian).
Synap hội tụ
Sinh lý synap điện
Synap điện là con đường trung gian dẫn điện và hóa học giữa hai neuron, hình thành nên cầu nối giữa tế bào tiền và hậu synap, được gọi là cầu nối liên bào. Tại cầu nối liên bào các tế bào cách nhau khoảng 3.5 nm, khoảng cách này ngắn hơn nhiều so với khoảng cách giữa hai tế bào ở synap hóa, từ 20 – 40 nm.
Sinh lý synap điện
Đối với Synap điện, các ion di chuyển trực tiếp từ neuron này sang neuron khác thông qua cầu nối liên bào.
Cầu nối liên bào cấu tạo bởi 12 loại protein tạo thành các kênh vận chuyển trên màng nối liền tế bào chất giữa hai neuron gần nhau, cho phép các phân tử nhỏ có thể di chuyển qua lại.
Một cầu nối liên bào được cấu tạo bởi hai phân tử connexon liên kết với khoảng gian bào.
Sinh lý synap điện
Điện synap có tốc độ chuyển tin nhanh, các xung điện được truyền trực tiếp giúp tránh trì hoãn khoảng 0,5ms thường xảy ra ở synap hóa. Một số ví dụ cho thấy rằng có sự tồn tại cầu nối điện cực giữa thân và sợi trục để bảo đảm sự kích thích khử cực xảy ra trên toàn bộ cụm tế bào.
Khả năng truyền tín hiệu đến synap điện tương ứng với số lượng cầu nối liên kết giữa các tế bào. Tính thấm chọn lọc của các cầu nối được điều hòa bởi ion H+ và Ca2+ ; sự thay đổi nồng độ các ion điều chỉnh khả năng truyền xung điện tại điện synap.
Sinh lý synap điện
Một số ví dụ về điện synap ở loài động vật không xương sống cho thấy rằng cấu trúc chất dẫn truyền là một cấu nối liên bào liên kết với màng có điện trở thấp hơn vùng bên ngoài màng, … điện trở nối giữa tế bào - tế bào nhỏ hơn điện trở nối giữa tế bào - chất lỏng ngoại bào, đây là dạng thụ động do đó điện thế hoạt động không được tạo ra.
Xung điện truyền đến vùng nối gây ra dòng điện xuyên qua màng sau đó ra khỏi tề bào tiền synap để đến tế bào hậu synap. Dòng điện này sẽ ra khỏi tế bào hậu synap (theo luật Kirchhoff) sau đó xuyên qua màng kích thích điện gây ra sự phân cực, nếu dòng điện đủ mạnh có thể làm cho tế bào hậu synap phóng điện.
Mặc dù vậy nhưng thông thường dòng điện phóng thích ra do sự phân cực không đáng kể, chỉ khoảng 1- 2mV.
Sinh lý synap điện
Ở động vật có vú, võng mạc sử dụng synap điện thông qua con đường từ các tế bào dạng que kích thích ánh sáng đến các tế bào hạch mở. Ở vùng tối, các tế bào lưỡng cực dạng que truyền tín hiệu kích thích các tế bào amacrine AII xuyên các synap (theo hướng mũi tên xanh). Tế bào AII tạo ra synap điện (đường răng cưa màu xanh) khi tế bào lưỡng cực hình nón mở, theo con đường ký sinh. Ở động vật con đường này sẽ làm mất gen knock out Cx36. Mũi tên đỏ biểu thị synap hóa ức chế.
Synap hóa
Vào năm 1950, T. R. Elliott (Đại học Cambridge, Anh) nhận thấy rằng adrenaline (epinepherine) làm cho tim đập nhanh, giãn cơ bụng, giãn đồng tử. Những ảnh hưởng trên xảy ra song song với sự kích thích thần kinh giao cảm (SNS – sympathetic nervous system), từ đó ông suy ra rằng hệ thần kinh giao cảm đã sử dụng adrenaline gây ra những hiện tượng trên.
Năm 1920, một nhà sinh lý học người Đức, Otto Loewi đã nảy ra một ý nghĩ sau đó ông đã tiến hành thí nghiệm trên ếch. Ông sử dụng tim ếch vì chúng có thể tự đập mà không cần kích thích khi bị cắt rời ra khỏi cơ thể ếch và giữ trong cốc chứa dung dịch.
Synap hóa
Qua đó, ông kết luận rằng có một vài chất được tiết ra khi dây thần kinh phế vị bị kích thích, cũng chính các chất đó là cho tim thứ hai đập chậm. Nhưng vào thời gian đó ông chưa biết đó là chất gì nên tạm gọi là Vagusstoff – stuff from vagus nerve (chất được tiết ra từ dây thần kinh phế vị).
Về sau khám phá ra đó là acetylcholine, một trong chất dẫn truyền thần kinh. Ngoài ra trong quá trình khảo sát ông tình cờ thấy rằng các chất hóa học học được sử dụng như chất dẫn truyển dọc theo các t1ui synap tại nút synap.
Hình 13. Cấu trúc Synap hóa
Tế bào tiền synap cỡ lớn giai đoạn cuối của neuron Aplysia nối với tế bào hậu synap cỡ nhỏ ở dây sống. Bên trong tế bào chất của tế bào tiền synap chứa nhiều dạng túi synap không đồng nhất. Một số ở dạng khối đặc, một số khác ở dạng electron phát sáng, chứa các chất dẫn truyền khác nhau.
Hoạt động hóa học tại Synap
Tại synap hóa túi synap phân chia thành các tế bào tiền và hậu synap để ngăn sự kết hợp điện tích.
Bên trong tế bào chất của tế bào tiền synap giai đoạn cuối có nhiều túi synap chứa hàng ngàn phân từ dẫn truyền thần kinh.
Điện thế hoạt động được tạo ra bởi sự khử cực trên màng tế bào tiền synap ở giai đoạn cuối đẩy Ca2+ qua kênh điện thế.
Sự gia tăng đột ngột nồng độ Ca2+ kích thích túi synap trên màng tế bào tiền synap để phóng thích các chất dẫn truyền vào khe synap bằng cách thải ra khỏi tế bào.
Hoạt động hóa học tại Synap
Chất dẫn truyền khuếch tán qua màng tế bào hậu synap liên kết với receptor đặc hiệu, gây mở cổng ion. Tuy nhiên, tuỳ theo kiểu receptor và loại cổng ion, chất dẫn truyền sẽ kích thích màng khử cực hay ức tế bào hậu synap bởi sự phân cực.
Các phân tử dẫn truyền giảm mạnh khi các enzyme và các phần tử khác tổng hợp lại tế bào tiền synap.
Synap hóa cho phép các xung điện thần kinh di chuyển theo một hướng duy nhất.
Sự phóng thích chất dẫn truyền thần kinh được gây ra bởi xung điện thần kinh (hay là điện thế hoạt động) và thông qua sự tiết của tế bào được diễn ra cực kỳ nhanh: Giai đoạn cuối tế bào tiền synap, các túi synap chứa chất dẫn truyền thần kinh tập hợp gần màng synap.
Điện thế hoạt động xảy ra tạo dòng chảy ion xuyên qua màng điện thế hay còn gọi là kênh chọn lọc ion canxi. Các ion canxi gây tác động sinh hóa làm tan các túi synap trên màng tiền synap, phóng thích các phân tử dẫn truyền thần kinh và tạo đáp ứng mở cổng kênh ion trên màng tế bào hậu synap, hiện tượng ion di chuyển ra vào làm thay đổi điện thế hoạt động của màng tế bào.
Sự tiết xảy ra khi có hiện tượng khử cực và bị ức chế khi có hiện tượng đảo cực. Synap tiết hay ức chế phụ thuộc vào kiểu kênh ion dẫn truyền tới tế bào hậu synap, phụ thuộc vào các receptor và chất dẫn truyền thần kinh tại synap.
Sự khác biệt giữa synap điện và synap hóa
Đặc tính khác biệt giữa synap điện và synap hóa
Tóm tắt
Synap có chức năng là cầu nối giữa các tế bào, truyền thông tin từ tế bào này sang tế bào khác tại hầu hết các nơi có synap điện theo dọc màng tế bào.
Sự dẫn truyền tại synap hóa liên quan sự phóng thích chất dẫn truyền thần kinh từ yếu tố tiền synap bởi điện thế hoạt động.
Chất ức chế tiền synap làm giảm sự dẫn truyền thông qua con đường hướng tâm vào tế bào chứ không phải bằng các con đường khác.
Tóm tắt
Chất ức chế hậu synap làm giảm khả năng tự kích thích của tế bào vì vậy bị ảnh hưởng bởi tất cả con đường hướng tâm vào tế bào.
Synap điện và synap hóa đều có khả năng sửa chửa, ức chế và cộng gộp.
Synap hóa có khả năng phóng đại, hạn chế sự dình trệ synap, bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi điện thế màng tế bào hậu synap. Trong khi đó synap điện thì hoàn toàn trái ngược.
Hình 1: Biểu đồ về synap chỉ rõ các yếu tố tiền và hậu synap
khe synap
tế bào tiền synap
túi synap
button
giai đoạn cuối tiền synap
tế bào hậu synap
đường truyền
Synap
Tại vị trí cuối cùng của sợi xảy ra xảy ra hiện tượng chuyên hóa đặc biệt của tế bào được gọi là synap.
Dây thần kinh synap là cầu nối đặc biệt truyền các xung lực thần kinh từ màng tế bào tiền synap đến màng tế bào hậu synap thông qua các chất dẫn truyền thần kinh và enzyme.
Các synap hoạt động như công tắc đóng mở và máy lọc các đường truyền thông tin.
Các dạng Synap
Các synap nối với phần thân sợi trục – axosomatic
Các synap nối với phần nhánh sợi trục – axodendritic
Các synap nối với sợi trục – axoaxonic
Các nút trên sợi trục được gọi là yếu tố tiền synap và yếu tố hậu synap.
Các dạng Synap
Nhánh sợi trục – synap nối giữa thân của neuron này với nhánh của neuron khác.
Thân sợi trục – synap nối giữa thân của neuron này với thân của neuron khác.
Một số loại khác như:
Axoaxonic – synap nối giữa sợi trục và sợi trục
Dendrodendritic – synap nối giữa nhánh và nhánh
Dendrosomatic – synap nối giữa nhánh và thân sợi trục
Tế bào thần kinh tiền synap
Là các tế bào thần kinh dẫn các xung thần kinh đến chỗ nối synap.
Tại màng tế bào thần kinh tiền synap phóng thích các chất dẫn truyền thần kinh vào các xung thần kinh.
Các chất dẫn truyền được tiết ra từ tế bào thần kinh tiền synap kích thích các tế bào thần kinh hậu synap.
Tế bào thần kinh hậu synap
Là các tế bào thần kinh dẫn các xung thần kinh ra xa chỗ nối synapse.
Tại màng tế bào thần kinh hậu synap chứa các chất dẫn truyền thần kinh do tế bào tiền synap tiết ra.
Sự tích lũy các chất dẫn truyền thần kinh cho hoạt động của các tế bào thần kinh hậu synap là sự tổng hợp theo không gian hoặc thời gian.
Hình 3. Khảo sát hìng dạng synap dưới kính hiển vi điện tử cho thấy các yếu tố tiền và hậu synap có khả năng chuyên hóa đặc biệt. Ngoài ra có thể quan sát thấy sự tích lũy các ty thể và sự tạo thành các túi synap trên màng tế bào tiền synap
Sự truyền thông tin
Sự truyền đạt thông tin giữa các neuron được chia làm hai dạng:
Phân kỳ: khi một neuron phân nhánh nối với nhiều neuron khác.
Hội tụ: khi nhiều tế bào thần kinh hậu synapse hội tụ tại một synap.
Synap phân kỳ
Cấu nối liên kết giữa một tiền synap với hai hay nhiều neuron hậu synap (với tỷ lệ nhỏ hơn một).
Sự kích thích neuron hậu synap phụ thuộc vào thời gian các tế bào tiền synap tích lũy nhanh các chất dẫn truyền thần kinh (sự tổng hợp theo thời gian).
Synap phân kỳ
Synap hội tụ
Cầu nối liên kết giữa hai hay nhiều tế bào tiền synap và một tế bào hậu synap (với tỷ lệ lớn hơn 1).
Sự kích thích tế bào hậu synap phụ thuộc vào sự tích lũy các chất dẫn truyền thần kinh của các tế bào tiền synap (sự tổng hợp theo không gian).
Synap hội tụ
Sinh lý synap điện
Synap điện là con đường trung gian dẫn điện và hóa học giữa hai neuron, hình thành nên cầu nối giữa tế bào tiền và hậu synap, được gọi là cầu nối liên bào. Tại cầu nối liên bào các tế bào cách nhau khoảng 3.5 nm, khoảng cách này ngắn hơn nhiều so với khoảng cách giữa hai tế bào ở synap hóa, từ 20 – 40 nm.
Sinh lý synap điện
Đối với Synap điện, các ion di chuyển trực tiếp từ neuron này sang neuron khác thông qua cầu nối liên bào.
Cầu nối liên bào cấu tạo bởi 12 loại protein tạo thành các kênh vận chuyển trên màng nối liền tế bào chất giữa hai neuron gần nhau, cho phép các phân tử nhỏ có thể di chuyển qua lại.
Một cầu nối liên bào được cấu tạo bởi hai phân tử connexon liên kết với khoảng gian bào.
Sinh lý synap điện
Điện synap có tốc độ chuyển tin nhanh, các xung điện được truyền trực tiếp giúp tránh trì hoãn khoảng 0,5ms thường xảy ra ở synap hóa. Một số ví dụ cho thấy rằng có sự tồn tại cầu nối điện cực giữa thân và sợi trục để bảo đảm sự kích thích khử cực xảy ra trên toàn bộ cụm tế bào.
Khả năng truyền tín hiệu đến synap điện tương ứng với số lượng cầu nối liên kết giữa các tế bào. Tính thấm chọn lọc của các cầu nối được điều hòa bởi ion H+ và Ca2+ ; sự thay đổi nồng độ các ion điều chỉnh khả năng truyền xung điện tại điện synap.
Sinh lý synap điện
Một số ví dụ về điện synap ở loài động vật không xương sống cho thấy rằng cấu trúc chất dẫn truyền là một cấu nối liên bào liên kết với màng có điện trở thấp hơn vùng bên ngoài màng, … điện trở nối giữa tế bào - tế bào nhỏ hơn điện trở nối giữa tế bào - chất lỏng ngoại bào, đây là dạng thụ động do đó điện thế hoạt động không được tạo ra.
Xung điện truyền đến vùng nối gây ra dòng điện xuyên qua màng sau đó ra khỏi tề bào tiền synap để đến tế bào hậu synap. Dòng điện này sẽ ra khỏi tế bào hậu synap (theo luật Kirchhoff) sau đó xuyên qua màng kích thích điện gây ra sự phân cực, nếu dòng điện đủ mạnh có thể làm cho tế bào hậu synap phóng điện.
Mặc dù vậy nhưng thông thường dòng điện phóng thích ra do sự phân cực không đáng kể, chỉ khoảng 1- 2mV.
Sinh lý synap điện
Ở động vật có vú, võng mạc sử dụng synap điện thông qua con đường từ các tế bào dạng que kích thích ánh sáng đến các tế bào hạch mở. Ở vùng tối, các tế bào lưỡng cực dạng que truyền tín hiệu kích thích các tế bào amacrine AII xuyên các synap (theo hướng mũi tên xanh). Tế bào AII tạo ra synap điện (đường răng cưa màu xanh) khi tế bào lưỡng cực hình nón mở, theo con đường ký sinh. Ở động vật con đường này sẽ làm mất gen knock out Cx36. Mũi tên đỏ biểu thị synap hóa ức chế.
Synap hóa
Vào năm 1950, T. R. Elliott (Đại học Cambridge, Anh) nhận thấy rằng adrenaline (epinepherine) làm cho tim đập nhanh, giãn cơ bụng, giãn đồng tử. Những ảnh hưởng trên xảy ra song song với sự kích thích thần kinh giao cảm (SNS – sympathetic nervous system), từ đó ông suy ra rằng hệ thần kinh giao cảm đã sử dụng adrenaline gây ra những hiện tượng trên.
Năm 1920, một nhà sinh lý học người Đức, Otto Loewi đã nảy ra một ý nghĩ sau đó ông đã tiến hành thí nghiệm trên ếch. Ông sử dụng tim ếch vì chúng có thể tự đập mà không cần kích thích khi bị cắt rời ra khỏi cơ thể ếch và giữ trong cốc chứa dung dịch.
Synap hóa
Qua đó, ông kết luận rằng có một vài chất được tiết ra khi dây thần kinh phế vị bị kích thích, cũng chính các chất đó là cho tim thứ hai đập chậm. Nhưng vào thời gian đó ông chưa biết đó là chất gì nên tạm gọi là Vagusstoff – stuff from vagus nerve (chất được tiết ra từ dây thần kinh phế vị).
Về sau khám phá ra đó là acetylcholine, một trong chất dẫn truyền thần kinh. Ngoài ra trong quá trình khảo sát ông tình cờ thấy rằng các chất hóa học học được sử dụng như chất dẫn truyển dọc theo các t1ui synap tại nút synap.
Hình 13. Cấu trúc Synap hóa
Tế bào tiền synap cỡ lớn giai đoạn cuối của neuron Aplysia nối với tế bào hậu synap cỡ nhỏ ở dây sống. Bên trong tế bào chất của tế bào tiền synap chứa nhiều dạng túi synap không đồng nhất. Một số ở dạng khối đặc, một số khác ở dạng electron phát sáng, chứa các chất dẫn truyền khác nhau.
Hoạt động hóa học tại Synap
Tại synap hóa túi synap phân chia thành các tế bào tiền và hậu synap để ngăn sự kết hợp điện tích.
Bên trong tế bào chất của tế bào tiền synap giai đoạn cuối có nhiều túi synap chứa hàng ngàn phân từ dẫn truyền thần kinh.
Điện thế hoạt động được tạo ra bởi sự khử cực trên màng tế bào tiền synap ở giai đoạn cuối đẩy Ca2+ qua kênh điện thế.
Sự gia tăng đột ngột nồng độ Ca2+ kích thích túi synap trên màng tế bào tiền synap để phóng thích các chất dẫn truyền vào khe synap bằng cách thải ra khỏi tế bào.
Hoạt động hóa học tại Synap
Chất dẫn truyền khuếch tán qua màng tế bào hậu synap liên kết với receptor đặc hiệu, gây mở cổng ion. Tuy nhiên, tuỳ theo kiểu receptor và loại cổng ion, chất dẫn truyền sẽ kích thích màng khử cực hay ức tế bào hậu synap bởi sự phân cực.
Các phân tử dẫn truyền giảm mạnh khi các enzyme và các phần tử khác tổng hợp lại tế bào tiền synap.
Synap hóa cho phép các xung điện thần kinh di chuyển theo một hướng duy nhất.
Sự phóng thích chất dẫn truyền thần kinh được gây ra bởi xung điện thần kinh (hay là điện thế hoạt động) và thông qua sự tiết của tế bào được diễn ra cực kỳ nhanh: Giai đoạn cuối tế bào tiền synap, các túi synap chứa chất dẫn truyền thần kinh tập hợp gần màng synap.
Điện thế hoạt động xảy ra tạo dòng chảy ion xuyên qua màng điện thế hay còn gọi là kênh chọn lọc ion canxi. Các ion canxi gây tác động sinh hóa làm tan các túi synap trên màng tiền synap, phóng thích các phân tử dẫn truyền thần kinh và tạo đáp ứng mở cổng kênh ion trên màng tế bào hậu synap, hiện tượng ion di chuyển ra vào làm thay đổi điện thế hoạt động của màng tế bào.
Sự tiết xảy ra khi có hiện tượng khử cực và bị ức chế khi có hiện tượng đảo cực. Synap tiết hay ức chế phụ thuộc vào kiểu kênh ion dẫn truyền tới tế bào hậu synap, phụ thuộc vào các receptor và chất dẫn truyền thần kinh tại synap.
Sự khác biệt giữa synap điện và synap hóa
Đặc tính khác biệt giữa synap điện và synap hóa
Tóm tắt
Synap có chức năng là cầu nối giữa các tế bào, truyền thông tin từ tế bào này sang tế bào khác tại hầu hết các nơi có synap điện theo dọc màng tế bào.
Sự dẫn truyền tại synap hóa liên quan sự phóng thích chất dẫn truyền thần kinh từ yếu tố tiền synap bởi điện thế hoạt động.
Chất ức chế tiền synap làm giảm sự dẫn truyền thông qua con đường hướng tâm vào tế bào chứ không phải bằng các con đường khác.
Tóm tắt
Chất ức chế hậu synap làm giảm khả năng tự kích thích của tế bào vì vậy bị ảnh hưởng bởi tất cả con đường hướng tâm vào tế bào.
Synap điện và synap hóa đều có khả năng sửa chửa, ức chế và cộng gộp.
Synap hóa có khả năng phóng đại, hạn chế sự dình trệ synap, bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi điện thế màng tế bào hậu synap. Trong khi đó synap điện thì hoàn toàn trái ngược.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Dong Anh Luat
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)