Sang kiến KN giải toán hình ở tiểu học
Chia sẻ bởi Vũ Túy Phương |
Ngày 09/10/2018 |
53
Chia sẻ tài liệu: Sang kiến KN giải toán hình ở tiểu học thuộc Lịch sử 4
Nội dung tài liệu:
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CHẤT LƯỢNG
DẠY GIẢI TOÁN HÌNH HỌC Ở BẬC TIỂU HỌC
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Đặt vấn đề :
Từ những cơ sở lý luận và qua thực tế giảng dạy trong những năm làm giáo viên, tôi thấy rõ môn Toán giữ vai trò quan trọng trong chương trình giảng dạy ở Tiểu học vì:
* Các kiến thức kỹ năng ở môn Toán có nhiều trong ứng dụng trong thực tế đời sống, là hành trang không thể thiếu được để học sinh chuẩn bị học tiếp môn Toán ở bậc trung học.
* Qua học Toán, học sinh tạo được cho mình một phong cách làm việc có khoa học, có cơ sở lý luận, có tổ chức.
* Ngoài ra môn Toán cũng có vai trò, vị trí quan trọng khác mà tôi sẽ trình bày trong phần nội dung đề tài.
* Riêng về các yếu tố hình học, cũng có đầy đủ những vị trí và tầm quan trọng của môn Toán ở bậc Tiểu học. Đặc biệt ở bậc Tiểu học, những kiến thức về hình học được ứng dụng rất nhiều trong thực tiễn. Vì bất cứ ngành nghề nào, bất cứ ở đâu, các đối tượng hình học luôn hiển hiện trước mắt và đòi hỏi cách giải quyết .
Trong những năm học gần đây, việc dạy các yếu tố hình học cũng như dạy giải toán có nội dung hình học chưa được chú ý đúng mức. Trong các kỳ kiểm tra, thi học kỳ… tỉ lệ học sinh đạt điểm cao trong các bài toán hình là rất ít. Bài làm của học sinh chưa thể hiện được cách nhận biết hình, chưa thể hiện được sự thông minh, hiểu biết vấn đề, trình bày - lý luận thiếu mạch lạc, không lôgic.
Tôi có thể khẳng định: Học sinh nào giỏi toán hình học thì hầu như cũng đều giỏi các loại toán khá. Vì muốn giỏi toán hình học thì trước hết học sinh phải có tinh thần, ý chí học tập kiên trì, đó chính là đức tính cần thiết của học sinh giỏi và cũng chính là nền tảng của các nhà khoa học trẻ sau này và cũng đồng thời có những khả năng tư duy là cơ sở để hình thành những kỹ năng giải toán – nói riêng – và kỹ năng giải quyết những vấn đề khác ở mọi góc cạnh nói chung .
“Hình học” đối với tôi – người trực tiếp đứng lớp trước đây và bây giờ là một người cán bộ quản lý trực tiếp chỉ đạo về chuyên môn là một nỗi trăn trở, những mong góp phần tham gia giúp các em học sinh học tốt môn Toán (nói chung) và môn hình học (nói riêng)
2. Mục đích của đề tài :
Từ những lý do nói trên, khi tôi đứng lớp dạy các em học sinh (khối lớp 3) đã ấp ủ đề tài này từ những năm học còn đứng lớp cho đến nay tôi viết nên bằng lời những ấp ủ đó. Tôi cũng chỉ mong là những trao đổi nghiệp vụ nhằm nâng cao chuyên môn của người giáo viên.
Mục đích chính của đề tài là :
* Tìm hiểu các yếu kém của học sinh về hình học để đề ra giải pháp khắc phục.
* Tìm hiểu, phân dạng các bài toán liên quan đến chu vi, diện tích, thể tích các hình (chủ yếu là ở khối 4 và 5) đồng thời phân tích, nhận xét nêu ra các bước đi nhằm dạy từng dạng toán sao cho phù hợp với khả năng của học sinh.
- Tôi cũng mong rằng: những điều trình bày là một món quà của các thầy cô giáo dành cho học sinh thương yêu của chúng tôi.
- Tôi cũng xin qua đề tài gởi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám Hiệu và quý thầy cô đồng nghiệp đã tạo điều kiện và giúp đỡ, góp ý chân thành về chuyên môn trong những ngày tháng qua để tôi hoàn thành được tâm nguyện của mình một cách khá hoàn chỉnh.
3. Phạm vi đề tài :
- Tôi đã thực hiện đề tài này trong thực tiễn ở những năm học 1999 – 2000 (ở khối 1) liên tục cho đến năm học 2005 – 2006 (ở các khối khác), thuộc trường Tiểu học Hồ Văn Cường (Tân Phú).
Đ
iểm lại quá trình thực hiện trong thực tiễn, tôi thấy có những thành công nhất định và khả thi trong việc giúp tôi dạy dỗ các em học sinh .
Vì thế, tôi xin mạn phép trình bày để quý đồng nghiệp tham khảo và góp ý kiến.
NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM :
Thực trạng đề tài :
Trong những năm làm giáo viên đứng lớp, tôi nhận thấy việc học sinh hạn chế về tư duy hình học là rất lớn. Các em chỉ quen giải các bài toán hình học đơn giản (tức là chỉ giải dễ dàng các bài tập áp dụng công thức sẵn có).
Còn năm học 2006 – 2007, khi qua đợt khảo sát đầu năm.
Số liệu về thống kê khảo sát toán đầu năm của toàn trường :
Lớp
Sĩ Số
Số bài
Điểm giỏi
(9-10)
Điểm khá
(7 – 8)
Điểm TB
(5 – 6)
Điểm yếu
(3 – 4)
Kém
(1 – 2)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
HAI
196
196
99
50.5
56
28.6
29
14.8
11
5.6
1
0.5
BA
159
159
53
33.3
62
39.0
34
21.38
9
5.7
1
0.6
BỐN
187
184
58
31.5
53
28.8
38
20.65
20
10.9
15
8.2
NĂM
143
143
17
11.9
35
24.5
34
23.78
34
23.8
23
16.1
TC
685
682
227
33.3
206
30.2
135
19.79
74
10.9
40
5.9
Về số liệu chung, chỉ nêu được tổng quát về thống kê môn Toán, còn đi sâu về phân tích chất lượng học sinh rất yếu khi giải bài hình học thì hơn nửa lớp giải không đúng hoặc giải không được một câu hình học đơn giản.
Xin dẫn chứng 1 câu thuộc kiến thức hình học có hơn 70% học sinh giải thiếu sót, giải sai hoặc không làm được để tiện tham khảo cho thực trạng giải toán hình của các em học sinh đầu lớp 5: Một miếng đất hình chữ nhật có chu vi 480 m. Chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính diện tích miếng đất đó? (3 điểm)
2. Nội dung cần giải quyết :
a. Các nội dung về con người và phương pháp:
a.1 . Tìm hiểu và xây dựng các phương pháp giảng dạy của giáo viên ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến cách học của học sinh như thế nào?.
a.2 . Các tích cực và hạn chế nơi học sinh?
b. Các nội dung, mục tiêu và sự liên kết các kiến thức hình học ở
khối 4 và khối 5? (khối lớp thay sách giáo khoa năm đầu tiên)
c. Hình thành hệ thống các bài toán giải hình học nhằm giúp giáo viên có bước đi thích hợp giúp các đối tượng học sinh nắm vững các kiến thức, kỹ năng giải toán hình thuộc chương trình và cũng thể hiện được nghị quyết TW2 về nhiệm vụ: đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
3. Biện pháp giải quyết :
3.1. Biện pháp xây dựng thành nề nếp các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy – học:
a. Tìm hiểu và xây dựng các phương pháp giảng dạy của giáo viên ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến cách học của học sinh như thế nào? .
a.1 Những ưu điểm của phương pháp dạy học và ảnh hưởng tích cực của nó đến quá trình học của học sinh :
- Khi đã có kết quả khảo sát đầu năm, tôi và 01 Phó hiệu trưởng cùng bàn bạc giải pháp và sau đó trao đổi với các giáo viên lớp 4 và 5 về phương pháp. Qua trao đổi và thực tế tiếp xúc với HS ở thời gian đầu năm học. Tôi khẳng định: đồng nghiệp tôi đã quán triệt kỹ tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm” nên trong quá trình tiếp theo lên lớp 5, tôi cũng cảm nhận và thấy rõ học sinh cũng có khả năng tư duy độc lập, nhưng phải cần làm sao giúp các em phát huy được nền tảng, ích lợi của phương pháp này.
- Tôi chọn các phương pháp cho từng loại bài, từng việc làm như sau :
* Trong tiết dạy kiến thức mới, thông qua các buổi họp khối, họp HĐGD tôi chỉ đạo áp dụng những phương pháp thích hợp để GV giúp học sinh tìm tòi, khám phá, hình thành kiến thức mới. Tôi luôn luôn giữ đúng vai trò là người động viên, chỉ đạo hướng dẫn cho giáo viên tìm hiểu học sinh muốn học cái gì, người thầy muốn học sinh mình phải biết vững vái gì (mục tiêu) và GV phải là người tìm ra con đường dạy – học: thoải mái cho HS nhưng cũng đảm bảo sự truyền thụ và tiếp thu của GV - HS.
Tôi đã gợi ý cách làm việc của GV đến với HS một số công việc tiến hành thật cụ thể.
Ví dụ : Bài “Hình tam giác”. Đến bài tập: Dùng ê – ke vẽ chiều cao các hình tam giác sau:
Đáy
1 Đáy
2 3
Đáy
+ GV cần chuẩn bị ra phiếu luyện tập bài tập nói trên.
+ GV nên chia lớp thành 8 nhóm mỗi nhóm khoảng 5 HS, và tiến hành làm việc.
+ Trong khi các nhóm làm việc, GV cần đến từng nhóm và đặt ra những câu hỏi định hướng đồng thời theo dõi các em làm việc:
++ Cách cầm ê ke để kẻ vuông góc với 1 đường thẳng?
++ Thế nào là chiều cao của một hình tam giác?
++ Đáy của hình 1, hình 2, hình 3 ở vị trí nào? Đỉnh đối diện?
++ Yêu cầu tiến hành vẽ.
+ Sau khi nhóm thực hiện xon, đại diện nhóm lên trình bày.
Nhờ hình thức và phương pháp tổ chức dạy như thế học sinh biết rất rõ về cách vẽ các chiều cao tương ứng với mỗi cạnh đáy. Chính nhờ bài tập này mà khi GV dạy các em các bài toán nâng cao (dùng bồi dưỡng học sinh giỏi): Cho tam giác ABC kéo dài đáy BC (có số đo) một đoạn… m , thì diện tích tăng thêm a m2 như sau. Hãy tính diện tích ABC? Thì các em học sinh dễ dàng vẽ hình và nhận biết thật nhanh chóng chiều cao AH cuả phần tăng thêm cũng chính là chiều cao của hình tam giác ABC.
Từ đó, các em nhanh chóng tìm ra giải pháp để giải bài toán.
A
a m 2 ? m2
D H (số đo) B (số đo) C
Cũng từ bài toán này, khi đưa các em các bài toán nâng cao hơn về tam giác (không có số đo cụ thể – chỉ có các tỉ số), các em mau chóng rút ra những kết luận:
+ Nhận biết nhanh về mối liên hệ giữa các chiều cao cần thiết để giải toán.
+ Hai tam giác có cùng chiều cao (hoặc chiều cao bằng nhau), đáy bằng nhau thì suy ra diện tích bằng nhau … hoặc ngược lại.
+ Hoặc hai tam giác có tỉ số về chiều cao (hoặc đáy) thì cũng tỉ lệ về diện tích …
* Trong giờ học, GV nên dùng nhiều thời gian cho học sinh làm việc với sách giáo khoa, vở bài tập … luôn theo dõi họat động của từng cá nhân. GV hướng dẫn học sinh quan sát từng hình vẽ, và nêu hướng giải quyết từng tình huống của bài tập đặt ra. Nhờ đó đa số học sinh của chúng tôi đều hoạt động học tập và được phát triển khả năng tư duy cao nhất trong khả năng của từng cá thể học sinh. Tôi đề ra phương pháp để giáo viên giúp học sinh nắm được các yếu tố sau:
++ Hình thành được các biểu tượng về hình học: Tùy theo giai đoạn học tập, giáo viên cần giúp học sinh nhận dạng và vẽ được hình đứng riêng lẻ hay hình có chứa nhiều đối tượng liên quan.
Ví dụ :
1. Khi tính diện tích của 1 hình tròn riêng lẻ, thì học sinh cần vẽ được hình tròn đó và biế
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Túy Phương
Dung lượng: 219,50KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)