Nước Văn Lang
Chia sẻ bởi Nguyễn Vũ Phương |
Ngày 09/10/2018 |
46
Chia sẻ tài liệu: Nước Văn Lang thuộc Lịch sử 4
Nội dung tài liệu:
Văn Lang
Văn Lang là đầu tiên trong . Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các .
Truyền thuyết khởi đầu
/
Nước Văn Lang năm 500 TCN
Theo bộ sử ký Việt sử ký toàn (ĐVSKTT) - phần ngoại kỷ do sử gia Sĩ viết ở kỷ chép rằng: , thuộc dòng dõi , sinh ra , tức Kinh Dương Vương, Lộc Tục lấy con gái Long Vương Động , sinh ra Long (theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần Nông). Kế tiếp Lạc Long Quân và vợ là (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai, 50 người theo Lạc Long Quân theo cha về bờ biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua, hiệu là , đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở - .
Nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN bởi An Dương Vương . Từ đây hình thành quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.
Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ Việt sử kỷ thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt (15 bộ) khác vào khoảng kỷ TCN cùng thời với vua Trang của - . Ông lên ngôi xưng hiệu , đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang1Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia nên gọi kinh đô thời Văn Lang là . Trong bộ sử có dành những dòng sau cho các vua Hùng
"Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."
Các tài liệu nghiên cứu sau này cho rằng lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu và ba tỉnh , , ngày nay, thậm chí kéo dài tới Quảng Trị, dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng tương ứng với thời kỳ hoá Đông (từ năm 696 TCN - 682 TCN)
Tổ chức nhà nước
Đứng đầu nhà nước là , trong triều đình có các quan giúp việc là Lạc Hầu, quan Lạc Tướng cai quản các bộ địa phương, dưới Lạc Tướng là các quan Bồ Chính cai quản từng khu vực nhỏ (làng). Theo các tư liệu cổ, các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời (hoặc dòng) vua.
Xã hội có giai cấp có lẽ chưa xuất hiện, nhưng chắc chắn đã xuất hiện sự phân tầng. Theo Lĩnh Nam chích quái, tôi tớ được gọi là xao nếu là nữ, và xung nếu là nam, kẻ bề dưới là hôn. Xao có thể được gắn với sao trong tiếng Thái: con gái, hôncủa tiếng Chăm và ho hun của tiếng Jarai và côn huon trong tiếng Thái là những từ dùng để gọi các nô lệ lo việc nhà.
Kết thúc
Cuối thời , theo ĐVSKTT cũng như theo Đại Việt sử lược, do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sát nhập và thành lập nước .
Nguồn gốc tên gọi Văn Lang
Tên nước Văn Lang, cũng là tên bộ tộc mạnh nhất đã thống nhất 15 bộ tộc, chắc hản có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ Blang hay Klang, mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại chim họ tôn kính như vật tổ. Trong truyền thống của người Mường, tổ tiên của họ là hai con chim Ay và Ua (hay Klang và Klao). Một cách tương tự, Mê Linh, có nguồn gốc là Mling, cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh năm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng4Một điểm khác chữ "Hồng" trong từ
Văn Lang là đầu tiên trong . Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các .
Truyền thuyết khởi đầu
/
Nước Văn Lang năm 500 TCN
Theo bộ sử ký Việt sử ký toàn (ĐVSKTT) - phần ngoại kỷ do sử gia Sĩ viết ở kỷ chép rằng: , thuộc dòng dõi , sinh ra , tức Kinh Dương Vương, Lộc Tục lấy con gái Long Vương Động , sinh ra Long (theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu 5 đời của Thần Nông). Kế tiếp Lạc Long Quân và vợ là (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai, 50 người theo Lạc Long Quân theo cha về bờ biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua, hiệu là , đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở - .
Nước Văn Lang được hình thành vào khoảng năm 2879 TCN và kết thúc vào năm 258 TCN bởi An Dương Vương . Từ đây hình thành quan niệm dân gian coi nước Văn Lang đời Hùng Vương ra đời cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm và thường được sách báo nói tới 4000 năm văn hiến.
Tuy nhiên theo bộ sử ký xuất hiện còn sớm hơn bộ ĐVSKTT là bộ Việt sử kỷ thì chép nước Văn Lang được thành lập bởi thủ lĩnh bộ tộc Văn Lang thu phục các bộ tộc Việt (15 bộ) khác vào khoảng kỷ TCN cùng thời với vua Trang của - . Ông lên ngôi xưng hiệu , đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô tại Văn Lang1Về sau các sử gia nước ta bị ảnh hưởng của các sử gia nên gọi kinh đô thời Văn Lang là . Trong bộ sử có dành những dòng sau cho các vua Hùng
"Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút."
Các tài liệu nghiên cứu sau này cho rằng lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu và ba tỉnh , , ngày nay, thậm chí kéo dài tới Quảng Trị, dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, thời kỳ Văn Lang của các vua Hùng tương ứng với thời kỳ hoá Đông (từ năm 696 TCN - 682 TCN)
Tổ chức nhà nước
Đứng đầu nhà nước là , trong triều đình có các quan giúp việc là Lạc Hầu, quan Lạc Tướng cai quản các bộ địa phương, dưới Lạc Tướng là các quan Bồ Chính cai quản từng khu vực nhỏ (làng). Theo các tư liệu cổ, các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời (hoặc dòng) vua.
Xã hội có giai cấp có lẽ chưa xuất hiện, nhưng chắc chắn đã xuất hiện sự phân tầng. Theo Lĩnh Nam chích quái, tôi tớ được gọi là xao nếu là nữ, và xung nếu là nam, kẻ bề dưới là hôn. Xao có thể được gắn với sao trong tiếng Thái: con gái, hôncủa tiếng Chăm và ho hun của tiếng Jarai và côn huon trong tiếng Thái là những từ dùng để gọi các nô lệ lo việc nhà.
Kết thúc
Cuối thời , theo ĐVSKTT cũng như theo Đại Việt sử lược, do nhiều lần bị vua Thục sang đánh nhưng nhờ binh cường tướng giỏi nên đều thắng nên vua Hùng sinh ra kiêu ngạo, chểnh mảng võ bị, ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục là sang đánh, vua còn mải mê uống rượu, khi quân Thục đến gần vua nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng. Thục Vương chiếm lấy nước, sát nhập và thành lập nước .
Nguồn gốc tên gọi Văn Lang
Tên nước Văn Lang, cũng là tên bộ tộc mạnh nhất đã thống nhất 15 bộ tộc, chắc hản có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ Blang hay Klang, mà nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ chỉ một loại chim họ tôn kính như vật tổ. Trong truyền thống của người Mường, tổ tiên của họ là hai con chim Ay và Ua (hay Klang và Klao). Một cách tương tự, Mê Linh, có nguồn gốc là Mling, cũng chỉ một loài chim. Cách giải thích này phù hợp với tên gọi của vùng đất: Bạch Hạc, "con hạc trắng", - Mê Linh năm trong vùng đất này, - đồng thời cũng phù hợp với bức họa trình bày chim cao cẳng và người nhảy múa mặc bộ đồ bằng lông chim, trên các trống đồng4Một điểm khác chữ "Hồng" trong từ
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Vũ Phương
Dung lượng: 93,42KB|
Lượt tài: 0
Loại file: docx
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)