NUOC_SACH
Chia sẻ bởi Ngô Tùng Toại |
Ngày 12/10/2018 |
49
Chia sẻ tài liệu: NUOC_SACH thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
VAI TRÒ CỦA NƯỚC
ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ
1.1. Nước là một thực phẩm cần thiết cho đời sống và nhu cầu sinh lý của cơ thể
Nước chiếm thành phần quan trọng cơ thể con người (63%), trong huyết tương và các phủ tạng có tỷ lệ cao hơn. Nước tham gia vào quá trình chuyển hoá các chất, đảm bảo sự cân bằng các chất điện giải, điều hoà thân nhiệt.
Trung bình một ngày mỗi người cần từ 1,5-2,5 lít nước. Những người làm công việc hay trong thời tiết nóng bức thì nhu cầu cần nhiều hơn.
Số lượng nước được hấp thu để bù đắp lượng nước bài tiết qua da; qua phổi, thận... Khát nước là dấu hiệu đầu tiên của cơ thể bị thiếu nước.
1.2. Nước đưa vào cơ thể đa vi chất để duy trì sự sống
Nước đưa vào cơ thể các nguyên tố cần thiết để duy trì sự sống như Iốt, Florua, Mangan, kùm, Sắt, các Vitamin và các axít amin..
1.3. Nước là môi trường trung gian lây truyền bệnh
- Lây truyền các bệnh dịch như thương hàn, tả, lỵ, viêm gan, bại liệt.
- Nước hoà tan các chất thải, các chất độc hoá học, các chất phóng xạ, chất gây ung thư rồi tác hại đến con người.
1.4. Nước cần thiết cho nhu cầu vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng, cứu hoả và các yêu cầu sản xuất
Do vai trò quan trọng như vậy, cho nên nước phải đảm bảo 2 yêu cầu: đủ và sạch. Nước là nguồn tài nguyên quý hiếm, nên khi sử dụng cần phải có ý thức tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước
1.1. Nước là một thực phẩm cần thiết cho đời sống và nhu cầu sinh lý của cơ thể (TT)
2. Các nguồn nước trong thiên nhiên
Trong thiên nhiên có ba nguồn nước chính sau:
2.1. Nước mưa
- Do hơi nước trên mặt đất như nước biển, nước sông, hồ ao... bốc hơi lên không trung, gặp gió và khí lạnh đọng lại thành mưa.
- Về chất lượng hoá học và vi sinh học thì nước mưa sạch nhất. Tuy nhiên nó cũng bị nhiễm bẩn do rơi qua không khí, mái nhà, đựng trong bể chứa, nên mang theo nhiều bụi và các chất bẩn trong không khí.
2.2. Nước mặt
Do nước mưa rơi xuống mặt đất và tuỳ địa hình của mặt đất mà hình thành sông, suối, hồ ao.
- Nước sông có lưu lượng lớn, dễ khai thác, độ cứng và hàm lượng sắt nhỏ. Tuy nhiên nó thường có hàm lượng cặn cao, độ nhiễm bẩn về vi khuẩn lớn.
- Nước suối vào mùa khô rất trong, lưu lượng nhỏ, mùa lũ lưu lượng lớn, nước đục, có nhiều cát sỏi, độ cứng cao, có khi hoà tan các khoáng chất và hoạt chất cây cỏ độc.
- Nước ao hồ, đầm thường có độ màu cao do ảnh hưởng của rong rêu và các thuỷ sinh vật, thường bị nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn nếu không được bảo vệ.
2.3. Nước ngầm
Được hình thành bởi lượng nước mưa rơi trên mặt đất, thấm qua các lớp đất, được lọc sạch và giữ lại trong các lớp đất chứa nước, nằm giữa các lớp đất cản nước. Ngoài ra có thể còn do nước thấm từ đáy thành sông hoặc hồ ao tạo ra.
3. Như thế nào là nước sạch?
Nước sạch là nước phải trong, không có màu, không có mùi vị lạ gây khó chịu cho người sử dụng nước, không chứa các mầm bệnh và các chất độc hại.
Ghi chú: Tiêu chuẩn vệ sinh nước sạch được thực hiện theo quyết định số 09/2005/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành ngày 11 tháng 3 năm 2005.
Các loại hình cấp nước sạch
thường dùng và cách sử dụng
bảo quản
4.1. Bể, lu chứa nước mưa
Sơ đồ cấu tạo
- Bể, lu phải có nắp đậy
- Mái thu hứng nước mưa nên làm bằng vật liệu ngói, tôn tráng kẽm, mái bê tông, không được hứng nước từ mái fibrô xi măng.
- Máng dẫn không được sử dụng các tấm kim loại có mạ chì.
- Bể chứa nước mưa có ba van: van xả nước hứng đầu, van dẫn vào bể chứa và van xả cặn.
Sơ đồ cấu tạo bể chứa nước mưa
Sử dụng bể chứa nước mưa
- Không trữ nước mưa của 1-2 trận mưa lớn đầu mùa và 15 phút đầu của các trận mưa tiếp theo.
- Nước mưa cho ăn uống phải được đun sôi
- Trong mùa mưa có thể sử dụng nước mưa cho các nhu cầu khác như tắm giặt
- Dụng cụ đựng nước (gáo, gàu...) cần được treo cao, sạch. Khi múc nước trong bể cần nhẹ nhàng, tránh làm xáo trộn các cặn lắng ở đáy bể.
- Nên lắp vòi để lấy nước hợp vệ sinh.
Bảo quản
- Công tác tích trữ nước mưa được thực hiện vào tháng cuối của mùa mưa.
- Nước mưa cần được bảo quản để tránh sự phát triển của bọ gậy. Có thể nuôi cá cờ trong bể để diệt bọ gậy.
- Nắp bể, lu phải luôn được đậy kín. Nếu phải múc nước thì sau khi múc phải đậy nắp bể ngay.
- Không được để bể, lu khô lâu ngày, bể sẽ bị nứt.
4.2. Giếng đào
Cấu tạo
- Giếng đào là công trình thu nước ngầm mạch nông, có đường kính trung bình khoảng 0,8-2 m và chiều sâu từ 3-20 m, cấp nước cho một hay vài hộ gia đình.
- Nước từ các tầng chứa vào giếng có thể từ dưới lên, có thể từ thành bên vào. Để giữ cho giếng khỏi sạt lở, sạch sẽ, người ta xây thành giếng bằng gạch hoặc bằng các ống bê tông (ống bi).
- Dưới đáy giếng thường đổ một lớp sỏi hoặc cát vàng dày 0,2-0,4m.
Sơ đồ giếng đào
Sử dụng giếng đào
- Lấy nước sử dụng từ giếng đào có thể dùng gầu, tời, bơm tay hoặc bơm điện. Nên xét nghiệm chất lượng nước trước khi sử dụng.
- Nếu nước giếng có màu vàng, mùi tanh thì cần phải xây bể lọc sắt.
- Khi giếng bị ngập lũ, không được sử dụng để ăn uống hay tắm rửa. Trước khi sử dụng lại, phải hút, múc hết nước trong giếng ra, đồng thời nạo vét sạch bùn ở đáy giếng, khử trùng bằng vôi hoặc cloramin.
Bảo quản giếng đào
- Vị trí giếng nên để gần nhà nhưng phải cách chuồng nuôi gia súc, nhà tiêu tối thiểu là 10 m.
- Để tránh nước mưa, nước rửa thấm trực tiếp xuống giếng, cần phải lát nền xung quanh giếng và có rãnh thoát nước dẫn ra xa hoặc đổ vào hố thấm nước thải. Chèn chặt đất sét rộng 0,5 m xung quanh thành giếng từ mặt đất đến độ sâu tối thiểu là 1,2 m.
- Thành giếng phải cao hơn mặt đất tối thiểu là 0,8 m.
- Giếng phải có nắp đậy.
- Nên thả cá rô hoặc cá cờ trong giếng để diệt bọ gậy.
- Sau 2-3 năm sử dụng phải thau giếng bằng cách bơm múc hết nước trong giếng và nạo vét bùn ở đáy giếng, bổ sung lớp sỏi hoặc cát vàng. Kiểm tra các vết nứt ở thành giếng và dùng vữa xi măng trát lại.
4.3. Giếng khoan
Cấu tạo
- Thân giếng (còn gọi là ống vách): là ống nhựa PVC được nối với nhau bằng keo dán, ống vách có nhiệm vụ chống nhiễm bẩn và chống sạt lở giếng. Chiều dài của ống vách phụ thuộc vào chiều sâu của giếng.
- Ống lọc: là ống nhựa PVC được nối với ống vách, đặt trực tiếp trong lớp đất đá chứa nước để thu nước vào giếng và chống bùn cát tràn vào giếng. Chiều dài ống lọc phụ thuộc vào chiều dày của tầng chứa nước và lượng nước cần sử dụng.
- Ống lắng: là ống nhựa PVC được nối với ống lọc để giữ lại cặn cát lọt qua ống lọc và giếng. Chiều dài ống lắng khoảng 1m đến 1,5m.
Sử dụng giếng khoan
- Sử dụng bơm tay để lấy nước nếu mực nước tĩnh nhỏ hơn hoặc bằng 6 m. Nếu mực nước tĩnh lơn hơn 7 m sử dụng bơm điện.
- Phải xét nghiệm chất lượng nước trước khi sử dụng.
- Nếu nước giếng bơm lên có mùi tanh sau đó chuyển sang màu vàng (trong nước có sắt) thì cần phải xây bể lọc sắt.
- Nếu giếng bị ngập lụt phải bơm nước với thời gian liên tục ít nhất 4 giờ trước khi sử dụng lại.
- Sau một thời gian sử dụng nếu lưu lượng giếng giảm đáng kể, cần phải dùng máy nén khí thổi rửa giếng. Nếu lưu lượng không cải thiện thì có thể do mực nước tĩnh bị tụt quá sâu. Để có đủ nước dùng chỉ có thể thay máy bơm hút sâu.
Bảo quản giếng khoan
- Vị trí giếng nên để gần nhà nhưng phải cách chuồng nuôi gia súc, nhà tiêu tối thiểu là 10 m.
- Để tránh nước mưa, nước rửa thấm xuống giếng, cần phải lát nền xung quanh giếng và có rãnh thoát nước, đồng thời phải chèn chặt đất sét rộng 0,5 m xung quanh thành giếng từ mặt đất đến độ sâu tối thiểu là 3 m.
4.4. Công trình cấp nước tập trung
- Các công trình cấp nước tập trung là các công trình phục vụ cho cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cơ quan, trường học, trạm y tế...
- Nguồn nước được sử dụng cho các công trình này có thể là nước mặt, nước ngầm và nước tự chảy, được qua các quy trình xử lý phức tạp trước khi nước được đưa vào sử dụng.
- Các công trình này có kinh phí xây dựng lớn và đòi hỏi kỹ thuật cao trong quá trình xây dựng và vận hành bảo dưỡng, thường do các cơ quan chuyên môn đảm nhiệm.
5. Một số biện pháp làm sạch nước
5.1. Đánh phèn
Dùng phèn chua với liều lượng 1g phèn chua (một miếng bằng nửa đốt ngón tay) cho 20 lít nước. Múc một gàu nước, hoà lượng phèn tương đương thể tích nước cần làm trong cho tan hết, cho vào chum, vại, lu, khạp hay thùng nước, khuấy đều, chờ khoảng 30 phút cho cặn lắng hết xuống đáy, rồi gạn lấy nước trong.
Để làm trong nước giếng, dùng phèn chua (loại thường dùng là phèn nhôm) với liều lượng 50g/1m3nước. Hoà tan hết lượng phèn cần thiết vào một gàu nước, thả gầu chìm sâu xuống nước rồi kéo mạnh lên khoảng 10 lần rồi để yên 30 phút đến 1 giờ cho cặn lắng hết thì tiến hành khử trùng.
5.2. Làm trong nước bằng biện pháp dân gian
Lấy một nắm lá mồng tơi hay lá dâm bụtvò nát cho vào thùng nước (khoảng 20 lít), khuấy đi khuấy lại nhiều lần, để cho lắng cặn, gạn lấy nước trong để dùng.
Dùng một mảnh vải sạch căng ra, đổ nước qua mảnh vải nhiều lần cho đến khi thấy nước trong là dùng được.
5.3. Bể lọc
Ở nông thôn người ta thường xây các bể lọc hai ngăn để khử sắt khi lấy nước từ giếng lên.
Hiện nay bể lọc sắt còn được dùng để loại bỏ asen (thạch tín) ra khỏi nguồn nước ngầm.
Khả năng loại bỏ asen phụ thuộc vào tỷ lệ sắt và asen trong nước.
Nếu tỷ lệ này là 50 hay lớn hơn (hoặc trong thực tế nồng độ sắt có trong nước ngầm lớn hơn 12 mg/lít), khả năng lọc loại bỏ asen trong nước lớn hơn 80%.
Ngược lại, nếu nồng độ sắt thực tế trong nước ngầm khoảng 3-4 mg/lít, thì khả năng loại bỏ asen giảm xuống dưới 60%.
5.3. Bể lọc (TT)
Sơ đồ cấu tạo bể lọc
- Kích thước của bề mặt lọc tính theo công thức F = Q/v (m2) với Q là lưu lượng nước xử lý, m3/h và v là tốc độ lọc lấy theo hàm lượng cặn trong nước ngầm. Nừu khử sắt trong nước ngầm lấy v = 0,5 m/h.
- Đối với bể lọc gia đình chỉ cần xây một ngăn lọc kết hợp với một ngăn lắng. Bên cạnh là một ngăn chứa nước sạch.
- Tường bể có thể xây bằng gạch, đá hoặc bê tông. Dùng các van để xả cặn, xửa rửa lọc và điều chỉnh tốc độ lọc.
- Chiều cao tổng cộng của bể lọc tính bằng tổng chiều dày lớp sàn đáy, chiều dáy lớp sỏi đỡ, chiều dày lớp cát lọc và bề dày lớp nước 0,4-0,5m.
- Đáy bể lọc phải có khả năng thu và thoát trên toàn bộ bề mặt. Dùng gạch xếp thành hàng nghiêng, bên trên xếp một lớp nằm gối lên các hàng gạch nghiên tạo thành lớp sàn, như vậy sẽ tạo các ống thu và dẫn nước bên dưới, trên mặt đổ sỏi đỡ lớp cát lọc. Chiều dày lớp sàn đáy khoảng 0,15 m. Đáy bể phải được láng xi măng chống thấm.
- Cát lọc dùng cát thạch anh (có thể dùng cát vàng) có kích thước 0,15-0,7mm. Đường kính hiểu quả tương đương 0,2-0,35 mm. Cát phải sạch, không có các tạp chất, chất bẩn hữu cơ. Bề dày lớp cát 0,8-1,0 m.
- Lớp sỏi đỡ: để giữ cho cát lọc không lọt qua khe hoặc ống thu sang bể chứa nước sạch, cần phải rải một lớp sỏi đỡ cát lọc. Kính thước của sỏi đỡ có thể từ 4-10 mm. Chiều của sỏi đỡ khoảng 0,2-0,5 cm. Có thể dùng đá dăm thay sỏi. Trước khi đưa vào bể, sỏi hoặc đá phải được rửa sạch.
Vận hành và bảo dưỡng
- Trước khi đưa bể vào vận hành phải đóng các van xả cặn V1, van điều chỉnh tốc độ V2 và van xả kiệt V3, cho nước chảy chậm từ ngăn lắng sang ngăn lọc thấm dần xuống lớp cát để dồn hết không khí ra khỏi cát lọc. Mở van V2 và theo dõi chất lượng nước.
- Có thể kiểm tra kết quả lọc bằng cách cho nước sau lọc vào cốc nước chè và để 4-5 phút, nếu nước chè không chuyển màu thì kết quả lọc tốt. Nếu chuyển màu từ xanh sang tím, tím đen thì lọc chưa hiệu quả, cần vặn nhỏ van điều chỉnh tốc độ lọc và theo dõi tiếp.
- Rửa bể lọc theo định kỳ 2 đến 3 tháng một lần với quy trình sau:
+ Ngắt nước thô không cho chảy vào bể.
+ Mở van xả cặn V1 để tháo hết cặn trong ngăn lắng ra ngoài. Chờ cho nước rút xuống dưới mặt cát lọc khoảng 20 cm, dùng bay hớt một lớp cát trên bề mặt dáy khoảng 2-3 cm bỏ đi. Sau khoảng 10-15 lần rửa, chiều dày lớp cát còn lại khoảng 0,6-0,7 m thì xúc toàn bộ số cát đó đi rửa và thay cát sạch vào theo chiều dày thiết kế.
5.4. Khử trùng bằng hoá chất
- Khử trùng bằng viên Cloramin T hoặc B thường dùng cho các hộ gia đình: Cloramin T hoặc B được đóng gói dưới dạng viên hàm lượng 0,25g. Loại này rất tiện lợi cho khử trùng các thể tích nước nhỏ như chum, vại lu, xô, chậu hoặc bể chứa nước nhỏ. Một viên Cloramin T hoặc B dùng để khử trùng 25 lít nước.
- Khử trùng bằng hoá chất bột Cloramin B, Clorua vôi: dùng để khử trùng các giếng, các nguồn nước cấp cho tập thể. Tính lượng hoá chất cần thiết để khử trùng dựa trên cơ sở nồng độ yêu cầu là 10mg/lít. Ví dụ: một thùng nước 30 lít thì cần 0,3g Cloramin B 25% (loại thông thường đang dùng), hoặc 0,4g Clorua vôi 20%, hoặc 0,12% Clorua vôi 70% để khử trùng.
- Có thể dùng thìa canh để đong bột hoá chất khử trùng, mỗi thìa canh đầy tương đương10g. Như vậy để khử trùng 300 lít nước cần khoảng 1/3 thìa bột Cloramin B thông thường (25%).
5.5. Thau rửa, làm trong và khử trùng giếng
Theo 3 bước sau đây:
Bước 1: Thau rửa giếng nước
+ Khơi thông tất cả các vũng nước quanh khu vực giếng.
+ Trước khi làm trong và khử trùng phải tiến hành thau vét giếng. Dùng nước giếng dội lên thành cho trôi hết đất cát và rác bám trên thành giếng và sàn giếng.
+ Nếu giếng ngập lụt, nước đục:
- Phải tiến hành thau vét giếng. Múc cạn nước và vết hết bùn cặn. Các vùng có điện hoặc máy nổ thì dùng máy bơm điện hút cạn nước rồi thau vét giếng. Trong trường hợp không thể thau vét được, nên chọn một giếng khác để xử lý và dùng chung. Nếu tất cả các giếng trong khu vực đó đều không thể thau vét được thì có thể dùng biện pháp xử lý tạm thời: múc vài chục lít lên bể chứa rồi đánh phèn và khử trùng, dùng hết lại làm mẻ khác, chờ vài ngày sau mức nước giếng xuống thấp sẽ tiến hành thau rửa.
- Trường hợp không có phèn chua để làm trong giếng: làm một bể lọc cát tạm thời bằng một thùng, xô hay vại thể tích khoảng 20-30 lít. Đục một lỗ đường kính 1cm trên thành cách đáy thùng 5cm, cho một ít đá hoặc gạch vỡ lót ở đáy, đặt một mảnh bao tải gai lên trên rồi đổ cát dày khoảng 25-30cm. Đổ nước giếng vào cho đến khi nước chảy ra trong thì lấy để khử trùng.
+ Nếu giếng bị ngập nhưng nước lụt không tràn vào giếng và nước giếng trong:
Vẫn phải tiệt trùng trước khi sử dụng. Nếu điều kiện cho phép thì múc cạn và thau rửa, nếu không thì có thể tiến hành tiệt trùng ngay nước trong giếng để sử dụng. Một vài tuần sau tiến hành thau rửa giếng.
Bước 2: Làm trong nước giếng
Dùng phèn chua (loại thường dùng là phèn nhôm) với liều lượng 50g/1m3 nước, nếu nước đục nhiều có thể cho lượng phèn tối đa tới 100g/1m3. Hoà tan hết lượng phèn cần thiết vào một gầu nước, thả gầu chìm sâu xuống nước rồi kéo mạnh lên khoảng 10 lần, rồi để yên 30 phút đến 1 giờ cho cặn lắng hết thì tiến hành khử trùng.
Bước 3: Khử trùng giếng nước
Về nguyên tắc nước giếng sau khi khử trùng phải có nồng độ Clo thừa là o,5-1,0mg/lít (có mùi nồng của Clo).
Tính lượng Cloramin B cần thiết cho giếng nước trên cơ sở nồng độ cần thiết là 10mg/m3. Có thể dùng một số hoá chất khác như Clorua vôi 20% (13g/m3), hoặc Clorua vôi 70% (4g/m3).
Múc một gầu nước, hoà lượng hoá chất nói trên vào nước, khuấy cho tan hết. Tưới đều gầu nước này vào giếng. Thả gầu cho chìm sâu đến nửa cột nước rồi kéo lên, kéo xuống khoảng 10 lần. Nếu không ngửi thấy mùi Clo tổng nước thì cho thêm khoảng1/3 thìa canh bột hoá chất trên vào giếng và khuấy đều. Cho thêm đến lúc nào nước giếng có mùi Clo thì thôi. Dùng nước giếng này dội lên thành giếng để khử trùng, sau đó để yên khoảng 30 phút là có thể dùng được. Nếu lỡ cho quá nhiều Clo thì chờ thêm nửa giờ hoặc một giờ nữa cho bớt mùi nồng.
Quá trình xử lý nước trong các giếng đào sau mùa mưa lũ được tiến hành
Lưu ý:
- Không tiến hành khử trùng đồng thời với đánh phèn vì phèn hoặc các chất hữu cơ có trong nước sẽ hấp phụ hết Clo hoạt tính và làm mất tác dụng khử trùng của Clo.
- Sau khi khử trùng ngửi thấy mùi Clo thì việc khử trùng mới có tác dụng.
- Nước đã khử trùng bằng Cloramin như trên vẫn phải đun sôi mới uống được.
6. Nước uống
- Các nguồn nước uống trong nhà trường cần phải được xét nghiệm thường xuyên để có những biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo các nguồn nước này đạt tiêu chuẩn vệ sinh về nước ăn uống.
- Nước lấy từ bất cứ nguồn nào, cho dù đã được xử lý thì trước khi uống cũng phải được đun sôi.
- Nhu cầu nước uống cho mỗi người cần có từ 1,5-2,5 lít /ngày. Ở trường học, nhu cầu nước uống cho một học sinh về mùa hè cho mỗi ca học bình quân là 0,3 lít, về mùa đông là 0,1 lít.
- Tuyệt đối không uống nước lã.
Xin cám ơn
HẾT
ĐỐI VỚI SỨC KHOẺ
1.1. Nước là một thực phẩm cần thiết cho đời sống và nhu cầu sinh lý của cơ thể
Nước chiếm thành phần quan trọng cơ thể con người (63%), trong huyết tương và các phủ tạng có tỷ lệ cao hơn. Nước tham gia vào quá trình chuyển hoá các chất, đảm bảo sự cân bằng các chất điện giải, điều hoà thân nhiệt.
Trung bình một ngày mỗi người cần từ 1,5-2,5 lít nước. Những người làm công việc hay trong thời tiết nóng bức thì nhu cầu cần nhiều hơn.
Số lượng nước được hấp thu để bù đắp lượng nước bài tiết qua da; qua phổi, thận... Khát nước là dấu hiệu đầu tiên của cơ thể bị thiếu nước.
1.2. Nước đưa vào cơ thể đa vi chất để duy trì sự sống
Nước đưa vào cơ thể các nguyên tố cần thiết để duy trì sự sống như Iốt, Florua, Mangan, kùm, Sắt, các Vitamin và các axít amin..
1.3. Nước là môi trường trung gian lây truyền bệnh
- Lây truyền các bệnh dịch như thương hàn, tả, lỵ, viêm gan, bại liệt.
- Nước hoà tan các chất thải, các chất độc hoá học, các chất phóng xạ, chất gây ung thư rồi tác hại đến con người.
1.4. Nước cần thiết cho nhu cầu vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng, cứu hoả và các yêu cầu sản xuất
Do vai trò quan trọng như vậy, cho nên nước phải đảm bảo 2 yêu cầu: đủ và sạch. Nước là nguồn tài nguyên quý hiếm, nên khi sử dụng cần phải có ý thức tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước
1.1. Nước là một thực phẩm cần thiết cho đời sống và nhu cầu sinh lý của cơ thể (TT)
2. Các nguồn nước trong thiên nhiên
Trong thiên nhiên có ba nguồn nước chính sau:
2.1. Nước mưa
- Do hơi nước trên mặt đất như nước biển, nước sông, hồ ao... bốc hơi lên không trung, gặp gió và khí lạnh đọng lại thành mưa.
- Về chất lượng hoá học và vi sinh học thì nước mưa sạch nhất. Tuy nhiên nó cũng bị nhiễm bẩn do rơi qua không khí, mái nhà, đựng trong bể chứa, nên mang theo nhiều bụi và các chất bẩn trong không khí.
2.2. Nước mặt
Do nước mưa rơi xuống mặt đất và tuỳ địa hình của mặt đất mà hình thành sông, suối, hồ ao.
- Nước sông có lưu lượng lớn, dễ khai thác, độ cứng và hàm lượng sắt nhỏ. Tuy nhiên nó thường có hàm lượng cặn cao, độ nhiễm bẩn về vi khuẩn lớn.
- Nước suối vào mùa khô rất trong, lưu lượng nhỏ, mùa lũ lưu lượng lớn, nước đục, có nhiều cát sỏi, độ cứng cao, có khi hoà tan các khoáng chất và hoạt chất cây cỏ độc.
- Nước ao hồ, đầm thường có độ màu cao do ảnh hưởng của rong rêu và các thuỷ sinh vật, thường bị nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn nếu không được bảo vệ.
2.3. Nước ngầm
Được hình thành bởi lượng nước mưa rơi trên mặt đất, thấm qua các lớp đất, được lọc sạch và giữ lại trong các lớp đất chứa nước, nằm giữa các lớp đất cản nước. Ngoài ra có thể còn do nước thấm từ đáy thành sông hoặc hồ ao tạo ra.
3. Như thế nào là nước sạch?
Nước sạch là nước phải trong, không có màu, không có mùi vị lạ gây khó chịu cho người sử dụng nước, không chứa các mầm bệnh và các chất độc hại.
Ghi chú: Tiêu chuẩn vệ sinh nước sạch được thực hiện theo quyết định số 09/2005/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành ngày 11 tháng 3 năm 2005.
Các loại hình cấp nước sạch
thường dùng và cách sử dụng
bảo quản
4.1. Bể, lu chứa nước mưa
Sơ đồ cấu tạo
- Bể, lu phải có nắp đậy
- Mái thu hứng nước mưa nên làm bằng vật liệu ngói, tôn tráng kẽm, mái bê tông, không được hứng nước từ mái fibrô xi măng.
- Máng dẫn không được sử dụng các tấm kim loại có mạ chì.
- Bể chứa nước mưa có ba van: van xả nước hứng đầu, van dẫn vào bể chứa và van xả cặn.
Sơ đồ cấu tạo bể chứa nước mưa
Sử dụng bể chứa nước mưa
- Không trữ nước mưa của 1-2 trận mưa lớn đầu mùa và 15 phút đầu của các trận mưa tiếp theo.
- Nước mưa cho ăn uống phải được đun sôi
- Trong mùa mưa có thể sử dụng nước mưa cho các nhu cầu khác như tắm giặt
- Dụng cụ đựng nước (gáo, gàu...) cần được treo cao, sạch. Khi múc nước trong bể cần nhẹ nhàng, tránh làm xáo trộn các cặn lắng ở đáy bể.
- Nên lắp vòi để lấy nước hợp vệ sinh.
Bảo quản
- Công tác tích trữ nước mưa được thực hiện vào tháng cuối của mùa mưa.
- Nước mưa cần được bảo quản để tránh sự phát triển của bọ gậy. Có thể nuôi cá cờ trong bể để diệt bọ gậy.
- Nắp bể, lu phải luôn được đậy kín. Nếu phải múc nước thì sau khi múc phải đậy nắp bể ngay.
- Không được để bể, lu khô lâu ngày, bể sẽ bị nứt.
4.2. Giếng đào
Cấu tạo
- Giếng đào là công trình thu nước ngầm mạch nông, có đường kính trung bình khoảng 0,8-2 m và chiều sâu từ 3-20 m, cấp nước cho một hay vài hộ gia đình.
- Nước từ các tầng chứa vào giếng có thể từ dưới lên, có thể từ thành bên vào. Để giữ cho giếng khỏi sạt lở, sạch sẽ, người ta xây thành giếng bằng gạch hoặc bằng các ống bê tông (ống bi).
- Dưới đáy giếng thường đổ một lớp sỏi hoặc cát vàng dày 0,2-0,4m.
Sơ đồ giếng đào
Sử dụng giếng đào
- Lấy nước sử dụng từ giếng đào có thể dùng gầu, tời, bơm tay hoặc bơm điện. Nên xét nghiệm chất lượng nước trước khi sử dụng.
- Nếu nước giếng có màu vàng, mùi tanh thì cần phải xây bể lọc sắt.
- Khi giếng bị ngập lũ, không được sử dụng để ăn uống hay tắm rửa. Trước khi sử dụng lại, phải hút, múc hết nước trong giếng ra, đồng thời nạo vét sạch bùn ở đáy giếng, khử trùng bằng vôi hoặc cloramin.
Bảo quản giếng đào
- Vị trí giếng nên để gần nhà nhưng phải cách chuồng nuôi gia súc, nhà tiêu tối thiểu là 10 m.
- Để tránh nước mưa, nước rửa thấm trực tiếp xuống giếng, cần phải lát nền xung quanh giếng và có rãnh thoát nước dẫn ra xa hoặc đổ vào hố thấm nước thải. Chèn chặt đất sét rộng 0,5 m xung quanh thành giếng từ mặt đất đến độ sâu tối thiểu là 1,2 m.
- Thành giếng phải cao hơn mặt đất tối thiểu là 0,8 m.
- Giếng phải có nắp đậy.
- Nên thả cá rô hoặc cá cờ trong giếng để diệt bọ gậy.
- Sau 2-3 năm sử dụng phải thau giếng bằng cách bơm múc hết nước trong giếng và nạo vét bùn ở đáy giếng, bổ sung lớp sỏi hoặc cát vàng. Kiểm tra các vết nứt ở thành giếng và dùng vữa xi măng trát lại.
4.3. Giếng khoan
Cấu tạo
- Thân giếng (còn gọi là ống vách): là ống nhựa PVC được nối với nhau bằng keo dán, ống vách có nhiệm vụ chống nhiễm bẩn và chống sạt lở giếng. Chiều dài của ống vách phụ thuộc vào chiều sâu của giếng.
- Ống lọc: là ống nhựa PVC được nối với ống vách, đặt trực tiếp trong lớp đất đá chứa nước để thu nước vào giếng và chống bùn cát tràn vào giếng. Chiều dài ống lọc phụ thuộc vào chiều dày của tầng chứa nước và lượng nước cần sử dụng.
- Ống lắng: là ống nhựa PVC được nối với ống lọc để giữ lại cặn cát lọt qua ống lọc và giếng. Chiều dài ống lắng khoảng 1m đến 1,5m.
Sử dụng giếng khoan
- Sử dụng bơm tay để lấy nước nếu mực nước tĩnh nhỏ hơn hoặc bằng 6 m. Nếu mực nước tĩnh lơn hơn 7 m sử dụng bơm điện.
- Phải xét nghiệm chất lượng nước trước khi sử dụng.
- Nếu nước giếng bơm lên có mùi tanh sau đó chuyển sang màu vàng (trong nước có sắt) thì cần phải xây bể lọc sắt.
- Nếu giếng bị ngập lụt phải bơm nước với thời gian liên tục ít nhất 4 giờ trước khi sử dụng lại.
- Sau một thời gian sử dụng nếu lưu lượng giếng giảm đáng kể, cần phải dùng máy nén khí thổi rửa giếng. Nếu lưu lượng không cải thiện thì có thể do mực nước tĩnh bị tụt quá sâu. Để có đủ nước dùng chỉ có thể thay máy bơm hút sâu.
Bảo quản giếng khoan
- Vị trí giếng nên để gần nhà nhưng phải cách chuồng nuôi gia súc, nhà tiêu tối thiểu là 10 m.
- Để tránh nước mưa, nước rửa thấm xuống giếng, cần phải lát nền xung quanh giếng và có rãnh thoát nước, đồng thời phải chèn chặt đất sét rộng 0,5 m xung quanh thành giếng từ mặt đất đến độ sâu tối thiểu là 3 m.
4.4. Công trình cấp nước tập trung
- Các công trình cấp nước tập trung là các công trình phục vụ cho cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cơ quan, trường học, trạm y tế...
- Nguồn nước được sử dụng cho các công trình này có thể là nước mặt, nước ngầm và nước tự chảy, được qua các quy trình xử lý phức tạp trước khi nước được đưa vào sử dụng.
- Các công trình này có kinh phí xây dựng lớn và đòi hỏi kỹ thuật cao trong quá trình xây dựng và vận hành bảo dưỡng, thường do các cơ quan chuyên môn đảm nhiệm.
5. Một số biện pháp làm sạch nước
5.1. Đánh phèn
Dùng phèn chua với liều lượng 1g phèn chua (một miếng bằng nửa đốt ngón tay) cho 20 lít nước. Múc một gàu nước, hoà lượng phèn tương đương thể tích nước cần làm trong cho tan hết, cho vào chum, vại, lu, khạp hay thùng nước, khuấy đều, chờ khoảng 30 phút cho cặn lắng hết xuống đáy, rồi gạn lấy nước trong.
Để làm trong nước giếng, dùng phèn chua (loại thường dùng là phèn nhôm) với liều lượng 50g/1m3nước. Hoà tan hết lượng phèn cần thiết vào một gàu nước, thả gầu chìm sâu xuống nước rồi kéo mạnh lên khoảng 10 lần rồi để yên 30 phút đến 1 giờ cho cặn lắng hết thì tiến hành khử trùng.
5.2. Làm trong nước bằng biện pháp dân gian
Lấy một nắm lá mồng tơi hay lá dâm bụtvò nát cho vào thùng nước (khoảng 20 lít), khuấy đi khuấy lại nhiều lần, để cho lắng cặn, gạn lấy nước trong để dùng.
Dùng một mảnh vải sạch căng ra, đổ nước qua mảnh vải nhiều lần cho đến khi thấy nước trong là dùng được.
5.3. Bể lọc
Ở nông thôn người ta thường xây các bể lọc hai ngăn để khử sắt khi lấy nước từ giếng lên.
Hiện nay bể lọc sắt còn được dùng để loại bỏ asen (thạch tín) ra khỏi nguồn nước ngầm.
Khả năng loại bỏ asen phụ thuộc vào tỷ lệ sắt và asen trong nước.
Nếu tỷ lệ này là 50 hay lớn hơn (hoặc trong thực tế nồng độ sắt có trong nước ngầm lớn hơn 12 mg/lít), khả năng lọc loại bỏ asen trong nước lớn hơn 80%.
Ngược lại, nếu nồng độ sắt thực tế trong nước ngầm khoảng 3-4 mg/lít, thì khả năng loại bỏ asen giảm xuống dưới 60%.
5.3. Bể lọc (TT)
Sơ đồ cấu tạo bể lọc
- Kích thước của bề mặt lọc tính theo công thức F = Q/v (m2) với Q là lưu lượng nước xử lý, m3/h và v là tốc độ lọc lấy theo hàm lượng cặn trong nước ngầm. Nừu khử sắt trong nước ngầm lấy v = 0,5 m/h.
- Đối với bể lọc gia đình chỉ cần xây một ngăn lọc kết hợp với một ngăn lắng. Bên cạnh là một ngăn chứa nước sạch.
- Tường bể có thể xây bằng gạch, đá hoặc bê tông. Dùng các van để xả cặn, xửa rửa lọc và điều chỉnh tốc độ lọc.
- Chiều cao tổng cộng của bể lọc tính bằng tổng chiều dày lớp sàn đáy, chiều dáy lớp sỏi đỡ, chiều dày lớp cát lọc và bề dày lớp nước 0,4-0,5m.
- Đáy bể lọc phải có khả năng thu và thoát trên toàn bộ bề mặt. Dùng gạch xếp thành hàng nghiêng, bên trên xếp một lớp nằm gối lên các hàng gạch nghiên tạo thành lớp sàn, như vậy sẽ tạo các ống thu và dẫn nước bên dưới, trên mặt đổ sỏi đỡ lớp cát lọc. Chiều dày lớp sàn đáy khoảng 0,15 m. Đáy bể phải được láng xi măng chống thấm.
- Cát lọc dùng cát thạch anh (có thể dùng cát vàng) có kích thước 0,15-0,7mm. Đường kính hiểu quả tương đương 0,2-0,35 mm. Cát phải sạch, không có các tạp chất, chất bẩn hữu cơ. Bề dày lớp cát 0,8-1,0 m.
- Lớp sỏi đỡ: để giữ cho cát lọc không lọt qua khe hoặc ống thu sang bể chứa nước sạch, cần phải rải một lớp sỏi đỡ cát lọc. Kính thước của sỏi đỡ có thể từ 4-10 mm. Chiều của sỏi đỡ khoảng 0,2-0,5 cm. Có thể dùng đá dăm thay sỏi. Trước khi đưa vào bể, sỏi hoặc đá phải được rửa sạch.
Vận hành và bảo dưỡng
- Trước khi đưa bể vào vận hành phải đóng các van xả cặn V1, van điều chỉnh tốc độ V2 và van xả kiệt V3, cho nước chảy chậm từ ngăn lắng sang ngăn lọc thấm dần xuống lớp cát để dồn hết không khí ra khỏi cát lọc. Mở van V2 và theo dõi chất lượng nước.
- Có thể kiểm tra kết quả lọc bằng cách cho nước sau lọc vào cốc nước chè và để 4-5 phút, nếu nước chè không chuyển màu thì kết quả lọc tốt. Nếu chuyển màu từ xanh sang tím, tím đen thì lọc chưa hiệu quả, cần vặn nhỏ van điều chỉnh tốc độ lọc và theo dõi tiếp.
- Rửa bể lọc theo định kỳ 2 đến 3 tháng một lần với quy trình sau:
+ Ngắt nước thô không cho chảy vào bể.
+ Mở van xả cặn V1 để tháo hết cặn trong ngăn lắng ra ngoài. Chờ cho nước rút xuống dưới mặt cát lọc khoảng 20 cm, dùng bay hớt một lớp cát trên bề mặt dáy khoảng 2-3 cm bỏ đi. Sau khoảng 10-15 lần rửa, chiều dày lớp cát còn lại khoảng 0,6-0,7 m thì xúc toàn bộ số cát đó đi rửa và thay cát sạch vào theo chiều dày thiết kế.
5.4. Khử trùng bằng hoá chất
- Khử trùng bằng viên Cloramin T hoặc B thường dùng cho các hộ gia đình: Cloramin T hoặc B được đóng gói dưới dạng viên hàm lượng 0,25g. Loại này rất tiện lợi cho khử trùng các thể tích nước nhỏ như chum, vại lu, xô, chậu hoặc bể chứa nước nhỏ. Một viên Cloramin T hoặc B dùng để khử trùng 25 lít nước.
- Khử trùng bằng hoá chất bột Cloramin B, Clorua vôi: dùng để khử trùng các giếng, các nguồn nước cấp cho tập thể. Tính lượng hoá chất cần thiết để khử trùng dựa trên cơ sở nồng độ yêu cầu là 10mg/lít. Ví dụ: một thùng nước 30 lít thì cần 0,3g Cloramin B 25% (loại thông thường đang dùng), hoặc 0,4g Clorua vôi 20%, hoặc 0,12% Clorua vôi 70% để khử trùng.
- Có thể dùng thìa canh để đong bột hoá chất khử trùng, mỗi thìa canh đầy tương đương10g. Như vậy để khử trùng 300 lít nước cần khoảng 1/3 thìa bột Cloramin B thông thường (25%).
5.5. Thau rửa, làm trong và khử trùng giếng
Theo 3 bước sau đây:
Bước 1: Thau rửa giếng nước
+ Khơi thông tất cả các vũng nước quanh khu vực giếng.
+ Trước khi làm trong và khử trùng phải tiến hành thau vét giếng. Dùng nước giếng dội lên thành cho trôi hết đất cát và rác bám trên thành giếng và sàn giếng.
+ Nếu giếng ngập lụt, nước đục:
- Phải tiến hành thau vét giếng. Múc cạn nước và vết hết bùn cặn. Các vùng có điện hoặc máy nổ thì dùng máy bơm điện hút cạn nước rồi thau vét giếng. Trong trường hợp không thể thau vét được, nên chọn một giếng khác để xử lý và dùng chung. Nếu tất cả các giếng trong khu vực đó đều không thể thau vét được thì có thể dùng biện pháp xử lý tạm thời: múc vài chục lít lên bể chứa rồi đánh phèn và khử trùng, dùng hết lại làm mẻ khác, chờ vài ngày sau mức nước giếng xuống thấp sẽ tiến hành thau rửa.
- Trường hợp không có phèn chua để làm trong giếng: làm một bể lọc cát tạm thời bằng một thùng, xô hay vại thể tích khoảng 20-30 lít. Đục một lỗ đường kính 1cm trên thành cách đáy thùng 5cm, cho một ít đá hoặc gạch vỡ lót ở đáy, đặt một mảnh bao tải gai lên trên rồi đổ cát dày khoảng 25-30cm. Đổ nước giếng vào cho đến khi nước chảy ra trong thì lấy để khử trùng.
+ Nếu giếng bị ngập nhưng nước lụt không tràn vào giếng và nước giếng trong:
Vẫn phải tiệt trùng trước khi sử dụng. Nếu điều kiện cho phép thì múc cạn và thau rửa, nếu không thì có thể tiến hành tiệt trùng ngay nước trong giếng để sử dụng. Một vài tuần sau tiến hành thau rửa giếng.
Bước 2: Làm trong nước giếng
Dùng phèn chua (loại thường dùng là phèn nhôm) với liều lượng 50g/1m3 nước, nếu nước đục nhiều có thể cho lượng phèn tối đa tới 100g/1m3. Hoà tan hết lượng phèn cần thiết vào một gầu nước, thả gầu chìm sâu xuống nước rồi kéo mạnh lên khoảng 10 lần, rồi để yên 30 phút đến 1 giờ cho cặn lắng hết thì tiến hành khử trùng.
Bước 3: Khử trùng giếng nước
Về nguyên tắc nước giếng sau khi khử trùng phải có nồng độ Clo thừa là o,5-1,0mg/lít (có mùi nồng của Clo).
Tính lượng Cloramin B cần thiết cho giếng nước trên cơ sở nồng độ cần thiết là 10mg/m3. Có thể dùng một số hoá chất khác như Clorua vôi 20% (13g/m3), hoặc Clorua vôi 70% (4g/m3).
Múc một gầu nước, hoà lượng hoá chất nói trên vào nước, khuấy cho tan hết. Tưới đều gầu nước này vào giếng. Thả gầu cho chìm sâu đến nửa cột nước rồi kéo lên, kéo xuống khoảng 10 lần. Nếu không ngửi thấy mùi Clo tổng nước thì cho thêm khoảng1/3 thìa canh bột hoá chất trên vào giếng và khuấy đều. Cho thêm đến lúc nào nước giếng có mùi Clo thì thôi. Dùng nước giếng này dội lên thành giếng để khử trùng, sau đó để yên khoảng 30 phút là có thể dùng được. Nếu lỡ cho quá nhiều Clo thì chờ thêm nửa giờ hoặc một giờ nữa cho bớt mùi nồng.
Quá trình xử lý nước trong các giếng đào sau mùa mưa lũ được tiến hành
Lưu ý:
- Không tiến hành khử trùng đồng thời với đánh phèn vì phèn hoặc các chất hữu cơ có trong nước sẽ hấp phụ hết Clo hoạt tính và làm mất tác dụng khử trùng của Clo.
- Sau khi khử trùng ngửi thấy mùi Clo thì việc khử trùng mới có tác dụng.
- Nước đã khử trùng bằng Cloramin như trên vẫn phải đun sôi mới uống được.
6. Nước uống
- Các nguồn nước uống trong nhà trường cần phải được xét nghiệm thường xuyên để có những biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo các nguồn nước này đạt tiêu chuẩn vệ sinh về nước ăn uống.
- Nước lấy từ bất cứ nguồn nào, cho dù đã được xử lý thì trước khi uống cũng phải được đun sôi.
- Nhu cầu nước uống cho mỗi người cần có từ 1,5-2,5 lít /ngày. Ở trường học, nhu cầu nước uống cho một học sinh về mùa hè cho mỗi ca học bình quân là 0,3 lít, về mùa đông là 0,1 lít.
- Tuyệt đối không uống nước lã.
Xin cám ơn
HẾT
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Ngô Tùng Toại
Dung lượng: 115,46KB|
Lượt tài: 1
Loại file: zip
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)