Modunle6 Hỗ trợ dạy học Tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất

Chia sẻ bởi Lương Quang Hiền | Ngày 28/04/2019 | 33

Chia sẻ tài liệu: Modunle6 Hỗ trợ dạy học Tiếng Việt cho HS DTTS vùng khó khăn nhất thuộc Ngữ văn 7

Nội dung tài liệu:


HỖ TRỢ DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
DỰ ÁN GD THCS VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT
MỘT VÀI VẤN ĐỀ
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
VÀ TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT

CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ
VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT
BÀI 1

A. MỘT VÀI VẤN ĐỀ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG KHÓ KHĂN NHẤT

I. MỤC TIÊU
Kiến thức:
- Hiểu những vấn đề chung về NN DTTS.
- Vai trò xã hội của ngôn ngữ DTTS.
- Tầm quan trọng của bảo tồn, phát triển tiếng nói DTTS, nâng cao khả năng sử dụng TV cho HS.
- Hiểu nguyên nhân HS DTTS học TV chưa tốt, tác động của vấn đề này đến chất lượng HT.
- Vấn đề giới trong sử NN địa phương, nhà trường.
Kĩ năng:
- Làm việc theo nhóm và KN tập huấn cho đồng nghiệp.
- Tôn trọng văn hoá, ngôn ngữ của DTTS.
- Giúp HS DTTS học tập, rèn luyện KN sử dụng TV.
- Tránh bất BĐG trong dạy học, giáo dục HS.




II. PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ
- Thông qua các sản phẩm làm việc của nhóm;
- Nội dung trình bày của cá nhân và nhóm trước lớp.
III. KẾT QUẢ MONG ĐỢI
Giáo viên THCS vùng khó khăn nhất có những hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các vấn đề ngôn ngữ và bình đẳng giới ở địa phương để vận dụng vào thực tế dạy học TV và các bộ môn khoa học khác.
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) của các dân tộc là sự thể hiện trình độ phát triển văn hoá và tư duy của từng dân tộc. Ngôn ngữ đã tích tụ lưu giữ quá khứ lịch sử truyền thống, phản ảnh quan niệm về vũ trụ, cái nhìn về cuộc sống và tương lai mà từng dân tộc đã đúc kết và xây dựng nên ... Khi một ngôn ngữ biến mất, thì những kiến thức này cũng sẽ mất theo và điều đó đồng nghĩa với việc một phần lịch sử và văn hóa của nhân loại bị xóa sổ và nền văn hoá chung của thế giới cũng bị “nghèo đi”.
Ngày nay, số ngôn ngữ có thể mất đi chủ yếu là ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Sự mất đi này diễn ra với mức độ ngày càng nhanh hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá nếu chúng ta  không có các giải pháp tích cực để bảo tồn và phát triển nó.
Để bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số thì cần phải xem xét, đánh giá nguyên nhân tại sao các ngôn ngữ này lại đang đứng trước nguy cơ mất đi, từ đó tìm biện pháp bảo tồn và phát triển.
Tổng hợp, kết luận:
+ Tiếng nói và chữ viết của đồng bào DTTS có tầm quan trọng dặc biệt đối với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Tiếng nói và chữ viết là vật mang tin (công cụ) và lưu giữ bản sắc văn hóa tốt nhất; chỉ có tiếng nói và chữ viết của dân tôc nào thì mới thể hiện đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc các giá trị văn hóa của dân tộc đó.
+ Là công cụ quan trọng nhất trong nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa trong dân tộc, cộng đồng các DT Việt Nam.
+ Vấn đề bảo tồn ngôn ngữ DTTS:
- Khuyến khích đồng bào DTTS học tập, sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết dân tộc.
- Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học nghệ thuật DTTS
- Đào tạo đội ngũ trí thức DTTS, tạo điều kiện để trí thức, cán bộ DTTS trở về phục vụ quê hương;điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trịVH, văn học, NT DTTS.
- Tăng cường đưa tiếng nói, chữ viết đồng bào DTTS vào giảng dạy các cấp.
Tình hình dạy tiếng DTTS, TMĐ ở VN
- Nhận xét, kết luận về vấn đề dạy TDT ở VN
+ Nhiều TDT đã, đang được dạy ở trên 20 tỉnh, thành phố, ở Tiểu học: tiếng Khmer, Chăm, Hoa, Êđê, Bana, H’Mông, Jrai.
+ Hình thức : Hình thức dạy 2 giai đoạn (1955-1960); Hình thức dạy xen kẽ TMĐ và TV; Hình thức dạy TMĐ như một môn học (từ 1980 đến nay); Dạy TMĐ như một chuyển ngữ (2000-2004); Chương trình giáo dục song ngữ dựa trên TMĐ.

Phiếu bài tập số 1
Thầy, cô hãy cho biết những khó khăn trong học tập của HS DTTS ở THCS hiện nay ?

Những khó khăn trong học tập của HS DTTS ở THCS hiện nay

Nhiều HS, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa không được đi học.
GV thường không biết tiếng dân tộc và văn hóa địa phương.
Nội dung tài liệu học tập khó đối với HS.
Không có chương trình học tiếng Việt phù hợp khi đến trường từ Mầm non đến Tiểu học).
Tiếng mẹ đẻ của HS chưa được sử dụng hỗ trợ HS trong học tập ở trường.
HS không hiểu nội dung bài học.
HS không tự tin vào học tập.


+ Cấp học mầm non cần huy động tối đa trẻ 5 tuổi đến lớp, tích cực chuẩn bị TV cho trẻ trước khi vào lớp 1 với tinh thần liên thông giữa mầm non và tiểu học. Các địa phương cũng cần triển khai chương trình làm quen với TV trong hè đối với trẻ chưa học qua lớp mẫu giáo 5 tuổi, nhằm chuẩn bị tốt khả năng lĩnh hội khi trẻ vào lớp 1.
+ Dạy học thí điểm môn TV lớp 1 cho HSDT theo định hướng chỉ đạo tăng thời lượng dạy học từ 350 tiết thành 500 tiết sẽ được áp dụng trên toàn quốc.
- Kết luận về vấn đề giữ gìn bảo tồn ngôn ngữ các DTTS và phát triển TV cho HS DTTS:
+ Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các DTTS học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.
+ Tăng cường, nâng cao chất lượng dạy học TV cho HS DTTS nhằm rút ngắn khoảng cách giữa miền xuôi với miền ngược.
“Vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục”; Vấn đề mất cân bằng giới trong GD.
Kết luận về vấn đề mất cân bằng giới trong giáo dục và hướng khắc phục:
- Ở các vùng nghèo và vùng DTTS : HS nam có nhiều cơ hội quay trở lại học tiếp hơn HS nữ.
- Tỉ lệ nữ CBQL giáo dục còn thấp, phần lớn chỉ giữ vị trí phó. Họ thường không được đưa ra quyết định, không được tiếp cận các thông tin, thiếu cơ hội trao đổi, thảo luận.
+ Dự án SREM đã triển khai các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức cho cả nam giới và phụ nữ ở các cương vị quản lý trong ngành giáo dục về tầm quan trọng của bình đẳng giới trong quá trình đổi mới QLGD, thông qua việc tăng cường sự tham gia của nữ cán bộ QLGD ở các vùng xa xôi, hẻo lánh và làm nổi bật sự đóng góp của họ vào sự nghiệp đổi mới GD.
+ Ở bình diện cấu tạo từ: Hàng loạt các từ tiếng Anh được cấu tạo có yếu tố man (đàn ông) phản ánh vị thế của nam quyền.
Trong tiếng Hán, một số từ có nghĩa “không lấy gì làm tốt đẹp” đều có bộ nữ bên cạnh.
+ Ở Việt Nam, có hiện tượng đặt từ phụ nữ trước một số từ chỉ chức danh nghề nghiệp như: Nữ bác sĩ, nữ kĩ sư, nữ tiến sĩ, nữ phóng viên, nữ giám đốc, nữ du kích... Hình như các chức danh, nghề nghiệp này đối với nam giới là chuyện đương nhiên còn đối với phụ nữ là chuyện lạ, chuyện hiếm.

B. ĐẶC ĐIỂM
CỦA TIẾNG VIỆT
I. MỤC TIÊU
Sau bài này, NTG có khả năng :
Kiến thức:
- Hiểu được những đặc điểm cơ bản nhất của một ngôn ngữ đơn lập.
- Đặc điểm cơ bản nhất của TV như một NN đơn lập.
Kĩ năng:
- Biết sử dụng những đặc điểm của TV vào việc dạy học TV và các bộ môn khoa học khác cho HS DTTS cấp THCS vùng khó khăn nhất.
Thái độ:
- Có ý thức thường xuyên vận dụng những hiểu biết về TV vào việc dạy học cho HS DTTS cấp THCS vùng khó khăn nhất .
Phiếu bài tập số 2

- Thầy/Cô hãy nêu và phân tích một số đặc điểm quan trọng nhất của một ngôn ngữ đơn lập?
- Vì sao tiếng Việt lại được xác định là một ngôn ngữ đơn lập? Hãy nêu và phân tích đặc điểm đó bằng những ví dụ cụ thể.
Phiếu bài tập số 3

Hãy phân tích đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ âm qua phân tích đoạn thơ sau:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
KẾT LUẬN: ĐẶC ĐIỂM ĐƠN LẬP
CỦA TIẾNG VIỆT
- Tiếng Việt thuộc họ Nam Á.
- Tiếng Việt có đặc điểm là một NN đơn lập (ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp ): Nhiều nguyên âm; Không biến hoá ngữ âm; hình thái của từ’; Đặc điểm từ loại không thật rõ ràng; chặt chẽ trong cấu trúc ngữ pháp; Ranh giới giữ từ và ngữ khó phân biệt.
ĐẶC ĐIỂM ĐƠN LẬP CỦA TV VỀ NGỮ ÂM
(dạng láy của từ)
Dạng láy của từ: đơn vị có giá trị tương đương với ngữ, đơn vị cùng bậc, được cấu tạo theo phương thức phối hợp ngữ âm, còn ngữ thì theo phương thức phối hợp ngữ nghĩa.
Ví dụ:
- Nằng nặng ; lúng ta lúng túng ...
Trong thơ văn, cũng như trong lời nói thông thường, dạng láy có vai trò quan trọng đáng chú ý.
ĐẶC ĐIỂM ĐƠN LẬP CỦA TIẾNG VIỆT
VỀ MẶT TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA
(Trong cách cấu tạo từ ghép)
- Do sự kết hợp ngữ nghĩa giữa các yếu tố để tạo nên nghĩa mới. Khi kết hợp, nghĩa riêng của từng yếu tố có sự biến đổi: cụ thể qua các từ ghép hợp nghĩa.
- đất + nước  đất nước
- sông + núi  sông núi
- đỏ + đen  đỏ đen
- học + hỏi  học hỏi
- theo + đuổi  theo đuổi
Trong tiếng Việt, rất nhiều trường hợp nghĩa của tiếng chính biến đổi và trở nên khái quát hơn.
Ví dụ:
- chân + trời  chân trời
- đầu + tàu  đầu tàu
- cổ + chai  cổ chai
- mắt + võng  mắt võng
- tim + đường  tim đường
Trường hợp ghép, nghĩa của tiếng phụ cũng có sự biến đổi theo, khác với nghĩa của tiếng đó khi đứng độc lập.
Ví dụ:
- gan, mật trong to gan, lớn mật
- lời trong ăn lời
- đá trong nước đá
TV còn thể hiện đặc tính đơn lập của mình ở khả năng tách đôi hoặc đan chéo các tiếng khi được sử dụng trong hoạt động nói năng.
Ví dụ:
- thề nguyền nước non
- Nhớ lời nguyện nước thề non
-Nước đi chưa lại, non còn đứng không
(Tản Đà)
- xuôi ngược
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
- Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau

(Hồng Nguyên)
Phiếu bài tập số 4
Qua đoạn trích sau, hãy phân tích đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt từ vựng – ngữ nghĩa:
Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
(Tùy bút Sông Đà – Nguyễn Tuân)
Phiếu bài tập 5

Hãy phân tích đặc điểm đơn lập của tiếng Việt về mặt ngữ pháp qua việc phân tích một số câu dẫn ra dưới đây:
Từ chiều lại bắt đầu trở rét.
Gió. Mưa.
Não nùng.
Đường vắng ngắt. Chưa đến 8 giờ mà đường đã vắng ngắt.
(Anh xẩm – Nguyễn Công Hoan)
Trong tiếng Việt, việc dùng trật tự cú pháp và
quan hệ từ làm phương tiện ngữ pháp là một
đặc điểm nổi bật. Trật tự sắp xếp các từ trong
câu là phương tiện chính để biểu thị mối
quan hệ ngữ pháp giữa các từ. Thay đổi trật
tự từ trong câu là thay đổi cả mối quan hệ
ngữ pháp, thay đổi cả nội dung ngữ nghĩa cần
thông báo của câu.
Tiếng Việt không sử dụng sự biến đổi hình thức ngữ âm của tiếng, cũng như của từ. Một tiếng có thể chỉ là tiếng mà cũng có thể là từ; một từ có thể chỉ là từ mà cũng có thể là một ngữ. Đó là đặc điểm chính của loại hình ngôn ngữ đơn lập mà tiếng Việt là một trường hợp tiêu biếu nhất.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lương Quang Hiền
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)