Ma trận và đề KT cuối năm môn TV lớp 4.

Chia sẻ bởi Đỗ Thị Hương Lan | Ngày 09/10/2018 | 89

Chia sẻ tài liệu: Ma trận và đề KT cuối năm môn TV lớp 4. thuộc Lịch sử 4

Nội dung tài liệu:

MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA CUỐI NĂM LỚP 4
Môn: Tiếng Việt
Mạch kt, kn
Số câu
Số điểm
Mức 1

Mức 2
Mức 3
Mức 4
Tổng



TN
TL
TN
TL
TN
TL
TN
TL
TN
TL

Kiến thức tiếng Việt:
- Hiểu nghĩa và sử dụng được một số TN (kể cả thành ngữ, TN, từ Hán Việt thông dụng) thuộc các chủ điểm đã học.
- Sử dụng được dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang.
- Nhận biết và bước đầu cảm nhận được cái hay của những câu văn có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, biết dùng biện pháp so sánh và nhân hóa để viết được câu văn hay.

Số câu



1


1



1


1

2

2



Số điểm

0,5





0,5



1,0


1,0

1,0

2,0



Câu số

7


8



9


10



Đọc hiểu văn bản:
- Xác định được h/ả, nhân vật, chi tiết có ý nghĩa trong bài đọc.
- Hiểu ND của đoạn, bài đã đọc, hiểu ý nghĩa của bài.
- Giải thích được chi tiết trong bài bằng suy luận trực tiếp hoặc rút ra thông tin từ bài đọc.
- Nhận xét được h/ả, nhân vật hoặc chi tiết trong bài đọc; biết liên hệ những điều đọc được với bản thân và thực tế.

Số câu

2




2



1


1

4

2



Số điểm

1,0




1,0



1,0


1,0

2,0

2,0



Câu số

1-2


3-4



5


6



Tổng
Số câu
3

3


2

2
6
4


Số điểm
1,5

1,5


2,0

2,0
3,0
4,0



KIỂM TRA CUỐI NĂM
Môn Tiếng Việt: Lớp 4
A. Kiểm tra đọc: 10 điểm.
1. Đọc thành tiếng: 3 điểm.
Đọc một trong các bài tập đọc sau (SGK HKII):
- Thắng biển. Tr.76
- Ga – vrốt ngoài chiến lũy Tr.80
- Dù sao trái đất vẫn quay!. Tr.85
- Con sẻ Tr.90
- Đường đi Sa Pa Tr.102
- Hơn một nghìn ngày vòng quanh trái đất. Tr.114
- Ăng-co Vát. Tr.123
- Con chuồn chuồn nước. Tr.127
- Vương quốc vắng nụ cười. Tr.132
- Vương quốc vắng nụ cười (tiếp theo) Tr.143
- Tiếng cười là liều thuốc bổ. Tr.153
- Ăn “mầm đá” Tr.157

 2. Kiểm tra đọc hiểu kết hợp kiểm tra kiến thức tiếng Việt: 7 điểm.
Đọc bài sau và trả lời câu hỏi:
ĐI XE NGỰA
Chiếc xe cùng con ngựa Cú của anh Hoàng đưa tôi từ chợ quận trở về. Anh là con của chú Tư Khởi, người cùng xóm, nhà ở đầu cầu sắt. Nhà anh có hai con ngựa, con Ô với con Cú. Con Ô cao lớn, chạy buổi sáng chở được nhiều khách và khi cần vượt qua xe khác để đón khách, anh chỉ ra roi đánh gió một cái tróc là nó chồm lên, cất cao bốn vó, sải dài, và khi tiếng kèn anh bóp tò te tò te, thì nó qua mặt chiếc trước rồi. Còn con Cú, nhỏ hơn, vừa thấp lại vừa ngắn, lông vàng như lửa. Nó chạy buổi chiều, ít khách, nó sải thua con Ô, nhưng nước chạy kiệu rất bền. Cái tiếng vó của nó gõ xuống mặt đường lóc cóc, đều đều thiệt dễ thương. Tôi thích nó hơn con Ô, vì tôi có thể trèo lên lưng nó mà nó không đá. Mỗi lần về thăm nhà, tôi thường đi xe của anh. Anh cho tôi đi nhờ, không lấy tiền. Thỉnh thoảng đến những đoạn đường vắng, anh trao cả dây
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Đỗ Thị Hương Lan
Dung lượng: 70,50KB| Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)