ĐỀ DẪN BÁO CÁO CHUYỆN ĐỀ CHÍNH TẢ LOP 3
Chia sẻ bởi Nguyễn Như Hổ |
Ngày 10/10/2018 |
28
Chia sẻ tài liệu: ĐỀ DẪN BÁO CÁO CHUYỆN ĐỀ CHÍNH TẢ LOP 3 thuộc Toán học 3
Nội dung tài liệu:
ĐỀ DẪN BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ CHÍNH TẢ LỚP 3 GIÁO AN ĐIỆN TỬ
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong quá trình dạy môn Tiếng Việt, nhiệm vụ của GV Tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Chính tả có nhiệm vụ rèn kĩ năng viết, nghe, đọc. Qua chữ viết đúng, đẹp GV bồi dưỡng tình
yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt cho HS.
Phân môn Chính tả trong nhà trường có nhiệm vụ giúp HS nắm vững các qui tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả. Ngoài ra, nó còn rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ.
Ngoài việc nắm vững vị trí, nhiệm vụ, tính chất, nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phù hợp, GV còn phải nắm vững các nguyên tắc dạy chính tả Tiếng Việt.
Dạy chính tả theo khu vực phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở từng khu vực, từng vùng miền để hình thành nội dung giảng dạy khi xác định được trọng điểm chính tả cần dạy cho HS ở từng khu vực, từng địa phương. Như vậy, trước khi dạy, GV cần tiến hành điều tra cơ bản để nắm lỗi chính tả phổ biến của HS từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy thích hợp với đối tượng HS lớp mình dạy.
II/ THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 3
1. THƯC TRẠNG CHUNG :
Đơn vị trường Tiểu học nơi tôi ở đa số người dân làm nông . Tình hình thực tế học sinh lớp 3 ở đây vốn từ của các em còn hạn chế . Các em chỉ hiểu nghĩa của các từ ngữ ở mức độ đơn giản trong khi từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú. Đa số gia đình các em còn nghèo, cha mẹ còn lo đi làm để kiếm sống, chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của các em.
Phân môn Chính tả có một vị trí rất quan trọng ở bậc tiểu học bởi vì giai đoạn Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành kĩ năng chính tả cho học sinh. Chính tả được bố trí thành một phân môn độc lập, có tiết dạy riêng trong khi bậc trung học cơ sở không có.
Phân môn Chính tả ở chương trình tiểu học có hai kiểu bài là chính tả đoạn bài và chính tả âm vần. Nội dung các bài chính tả âm vần là luyện viết đúng chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ viết sai chính tả. Thời gian dành cho bài tập chính tả âm vần dù là rất ngắn so với chính tả đoạn bài song việc rèn kỹ năng qua bài tập đó có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh. Qua các bài tập chính tả âm vần các em được rèn luyện để tránh việc viết sai chính tả các chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ lẫn nhằm đạt mục tiêu môn học.
2. ThỰC trạng học sinh :
Tính chất nổi bật của phân môn Chính tả là thực hành bởi vì chỉ có thể hình thành các kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh thông qua thực hành, luyện tập.
Điều đó cho thấy kĩ năng viết của các em còn hạn chế làm ảnh hưởng tới kết quả học tập ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
- Học sinh viết sai chính tả chủ yếu do các em bị mất căn bản từ lớp dưới, chưa nắm vững âm vần, chưa phân biệt được cách phát âm của GV, chưa hiểu rõ nghĩa của từ, chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú ý khi viết chính tả.
- Học sinh viết sai chính tả do một số lỗi sau :
- Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, thiếu dấu thanh…)
- Lỗi về các vần khó ( uênh, oang, oeo, uyên, uyêt…)
- Lỗi do phát âm sai ( at - ac, an - ang, iu - iêu…)
- Lỗi do không hiểu nghĩa của từ ( để dành - tranh giành )
- Lỗi do không nắm được qui tắc chính tả ( gh, ngh chỉ đứng trước i, e, ê. Cách ghi âm đệm )
Qua thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
a/ Về thanh điệu: Học sinh không phân biệt được hai thanh hỏi, ngã.
Ví dụ: sữa chữa , suy nghỉ
b/ Về âm đầu:
Học sinh còn viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ g / gh: đua ge
+ ng / ngh : củ ngệ
+ c / k: cây céo
+ ch / tr: con chăn
+ s / x: chim xẻ
+ v / d / gi: dụ lúa
+ r / g: cá gô
Qua thực tế giảng dạy trong nhiều năm tôi nhận thấy lỗi về ch/ tr; s/ x; r/ g ; v/d/ gi là phổ biến hơn cả.
c/Về âm chính:
Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:
+ ai / ay / ây: mây bai
+ ao / au / âu: lao bàn
+ oe/ eo: mạnh khẻo
+ iu/ êu / iêu: chìu chuộng
+ oi/ ôi / ơi: kêu gội
+ ăm/ âm: con tầm
+ im/ iêm :lúa chim
+ ăp/ âp: gập gỡ
+ ip / iêp: liên típ
+ ui/ uôi: đầu đui
+ um/ uôm / ươm: con buốm
+ ưi/ ươi: trái bửi
+ ưu/ ươu: con khứu
d/Về âm cuối:
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ at/ ac: đồ đạt
+ an/ ang: cây bàn
+ ăt/ ăc: mặt quần áo
+ ăn/ ăng: khăng quàng
+ ât/ âc: trái gất
+ ân/ âng: cái câng
+ êt/ êch: chênh lệt
+ ên/ ênh: lên đên
+ iêt/ iêc: thân thiếc
+ ut/ uc: núc áo
+ uôn/ uông: mong muống
+ uôt/ uôc: trắng muốc
+ ươn/ ương: con lương
3/ Về dạy chính tả của giáo viên:
Hạn chế lớn nhất là chưa phát âm chuẩn, do ảnh hưởng tiếng địa phương nên giáo viên ở mỗi vùng miền có cách phát âm chưa chính xác ở một số từ.
Người miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm
cuối n / ng / nh; t / c / ch. Hai bán âm cuối i/u lại được ghi bằng 4 con chữ i / y
(trong tai/tay); u/o ( trong cau/ cao ), do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh miền Nam. Mặt khác còn lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch / tr; s/ x; d/ gi; v/ d, phát âm không phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã.
Trong khi đó một số người miền Bắc chưa phân biệt l / n; d / gi.
4/Về chữ quốc ngữ:
Ngoài ra trong qui ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng. Ví dụ : / k / ghi bằng c, k, q, âm gờ ghi bằng / g /, gh; âm / ng / ghi bằng ng, ngh.
Do sự phức tạp của chữ quốc ngữ, ví dụ: / ă / lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au. Các nguyên âm đôi iê, ươ, uô lại được ghi bằng các dạng iê, yê, ia, ya, ươ, ưa, uô, ua (chia-khuya; chiến-tuyến; lương- lửa; buôn-mua).Âm đệm lại được ghi bằng hai con chữ o và u ( ví dụ: hoa - huệ ).
III- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ:
Trước tình hình HS viết còn sai nhiều lỗi chính tả, tôi đã áp dụng một số biện pháp khắc phục như sau :
1. phương pháp
Để việc dạy học chính tả đạt hiệu quả ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt giáo viên cần hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ….tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót.
Để dạy tốt người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề, có kiến thức cơ bản về ngữ âm học, từ vựng học, ngữ nghĩa học… có liên quan đến chính tả.
Nắm vững phương pháp đặc trưng của phân môn chính tả. Kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng dạy sao cho sát hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
2.1/ Luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, trước hết giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho mình và cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Do đó có đọc đúng và ghi nhớ âm đúng thì khi giáo viên đọc, học sinh sẽ tái hiện và viết đúng. Giáo viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng.
2.2/ Phân tích so sánh:
-Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “nặng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “nặn” giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này.
- Nặng = N + ăng + thanh nặng
- Nặn = N + ăn + thanh nặng
So sánh để thấy sự khác nhau, tiếng “nặng”có âm cuối là “ng”,tiếng “nặn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ cách phát âm và cách viết sẽ không viết sai.
2.3/ Giải nghĩa từ:
Do phương ngữ của từng miền khác nhau, cách phát âm đôi khi chưa thống nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm rõ nghĩa của từ để viết cho đúng.
Ví dụ: Học sinh đọc “suy nghỉ” nhưng viết “suy nghĩ” do đó học sinh cần hiểu “nghỉ” có nghĩa là hoạt động bị ngừng lại, còn “nghĩ” là tính toán điều gì đó. Vì vậy phải viết là “suy nghĩ”.
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn…nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là HS đã hiểu nghĩa từ ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh… với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
2.4/ Ghi nhớ mẹo luật chính tả:
* Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: Các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê. Ngoài ra giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như sau :
* Để phân biệt âm đầu s/ x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s : si, sồi, sả, sứ, sắn, sung, sao, sim, su su, sầu đâu, sơn trà, sậy, sấu, sến, sam, sán, sầu riêng, so đũa…sáo, sâu, sên, sam, sán, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, sư tử…
* Để phân biệt âm đầu tr/ ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng… chuột, chó, chí, chồn, chuồn chuồn, chào mào, châu chấu, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
* Luật bổng - trầm ( luật hỏi- ngã trong từ láy )
Đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã. Nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại ).
Có thể cho học sinh thuộc hai câu thơ sau:
Chị huyền mang nặng ngã đau
Anh sắc không hỏi bị đau chỗ nào.
Ví dụ: Bổng:
Ngang + hỏi : vui vẻ, trong trẻo…
Sắc + hỏi : mát mẻ, vất vả…
Hỏi + hỏi : lỏng lẻo, thủ thỉ…
Trầm:
Huyền + ngã : sẵn sàng, vững vàng…
Nặng + ngã : mạnh mẽ, vội vã…
Ngã + ngã : nhõng nhẽo, dễ dãi…
2. 5/ Làm các bài tập chính tả:
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập tận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp các em rút ra các qui tắc chính tả để ghi nhớ.
1- Bài tập trắc nghiệm :
Khoanh tròn chữ cái trước từ ngữ viết đúng :
a- căn dặn b- căng nhà c- kiêu căng
d- nhọc nhằn e- lằng nhằng g- cằng nhằng
h- vắng mặt i- vắn tắt k- vuông vắng
2- Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả.
chung sức chung thành
chim xẻ xẻ ván
nghèo đói ngoằn ngoèo
3- Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính tả.
A B
a- cuộn trâu (1)
b- ý rau (2)
c- chuồng sẻ (3)
d- khuôn sóng (4)
e- luống muốn (5)
g- suôn mẫu (6)
2
4- Bài tập lựa chọn:
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
Chị Tư đang…………xe đạp (sửa, sữa ).
Đôi………này đế rất………. (dày, giày).
Bài viết của em còn………… sài (sơ, xơ ).
Em thích nghe kể…………hơn đọc……… ( truyện, chuyện ).
5- Bài tập phát hiện:
+ Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng.
Đàn xếu đang sải cánh trên cao.
Quê hương là con dìu biếc.
Hồ về thu, nước chong vắt, mênh mông.
6- Bài tập điền khuyết:
Điền vào chỗ trống cho phù hợp:
d, r hoặc gi : …án cá, ….ễ….ãi, đêm….ao thừa, xếp hàng….ọc.
s hoặc x :….ôn….ao,….a….ôi,….ung phong, đơn….ơ.
ươn hoặc ương : s……mù, v……rau,cá…………..,vấn v………….
ât hoặc âc : gió b….., thứ nh……,quả g…..,m…….ong, ph….. cờ
iu hoặc iêu: th…đốt, thả d…, nhịp đ…, gió h…h…, buồn th…., x…….vẹo
7- Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa.
* Tìm các từ chứa có vần “ ươt ” hoặc “ ươc ”có nghĩa như sau;
Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ: …………
Thi không đỗ : ……………
Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh : ……………
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
Cây trồng để làm đẹp : …….
Khung gỗ để dệt vải : ………
Trái nghĩa với từ thật thà : ……..
Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố : ………
*Tìm các từ ngữ chỉ đồ vật có thanh hỏi: ………
*Tìm các từ ngữ chỉ đồ vật có thanh ngã: ………
8- Bài tập phân biệt:
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
chúc - chút nắng - nắn
no - lo sáu - sáo
dành-giành chiên - chuyên
9- Bài tập giải câu đố:
- Chọn dấu “ hỏi ” hay dấu “ ngã ” để đặt trên những chữ nghiêng rồi giải câu đố sau:
Mặt tròn như một chiếc nong
Lưng lưng bụng nước, mát trong suốt đời
Chăng bao giờ nói một lời
Săn sàng giúp đơ mọi người cần em.
(Là cái gì? )
* Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai.Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những qui tắc chính tả, hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhằm hình thành các kĩ xảo chính tả cần đưa ra những trường hợp viết sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó hướng học sinh đi đến cái đúng.
3- Tổ chức dạy học :
Khi tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập, giáo viên lựa chọn hình thức luyện tập phù hợp đối tượng học sinh và phù hợp với nội dung của từng bài tập nhằm tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập.
Trong quá trình học sinh làm bài, giáo viên quan sát cá nhân học sinh, nhóm học sinh để đôn đốc hướng dẫn và biết được những bài làm sai để tổ chức cho học sinh nhận xét và sửa chữa. Đối với dạng bài tập không chỉ có đáp án đúng duy nhất, giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập dưới hình thức trò chơi hoặc thảo luận nhóm thì hiệu quả và việc chữa bài tối ưu hơn cả. Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét góp ý bài của bạn, chỉ ra được lỗi để cùng chữa. Trường hợp nếu học sinh không phát hiện ra lỗi, giáo viên gợi ý để học sinh nhận ra và chữa lỗi. Khi đánh giá, ngoài việc chấm bài cho học sinh, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tự chấm bài hoặc chấm bài cho bạn dựa vào đáp án đúng và hướng dẫn chấm của giáo viên. Qua mỗi bài tập giáo viên tổng kết ý kiến và chốt lại nội dung kiến thức cần ghi nhớ và kỹ năng cần rèn luyện.
- Giáo viên nên tuyên dương, khen thưởng động viên kịp thời tạo hứng thú cho các em say mê học tập.
IV . Kết luận chung:
Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân mắc lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết không thể thiếu trong quá trình dạy học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không đựơc nôn nóng. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết hướng dẫn, chờ đợi thì kết quả sẽ không cao.
- Phải dùng nhiều hình thức rèn luyện, khen thưởng và động viên học sinh kịp thời. Hạn chế không nên trách phạt, chê các em trước lớp làm cho các em có mặc cảm và bạn bè có ấn tượng không tốt về các em. Bên cạnh đó giáo viên phải khích lệ, động viên học sinh phải kiên trì, chăm chỉ rèn luyện mới đạt được kết quả tốt.
Vĩnh nhuận , ngày 5 tháng 3 năm 2011
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong quá trình dạy môn Tiếng Việt, nhiệm vụ của GV Tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Chính tả có nhiệm vụ rèn kĩ năng viết, nghe, đọc. Qua chữ viết đúng, đẹp GV bồi dưỡng tình
yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt cho HS.
Phân môn Chính tả trong nhà trường có nhiệm vụ giúp HS nắm vững các qui tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả. Ngoài ra, nó còn rèn cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ.
Ngoài việc nắm vững vị trí, nhiệm vụ, tính chất, nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phù hợp, GV còn phải nắm vững các nguyên tắc dạy chính tả Tiếng Việt.
Dạy chính tả theo khu vực phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở từng khu vực, từng vùng miền để hình thành nội dung giảng dạy khi xác định được trọng điểm chính tả cần dạy cho HS ở từng khu vực, từng địa phương. Như vậy, trước khi dạy, GV cần tiến hành điều tra cơ bản để nắm lỗi chính tả phổ biến của HS từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy thích hợp với đối tượng HS lớp mình dạy.
II/ THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 3
1. THƯC TRẠNG CHUNG :
Đơn vị trường Tiểu học nơi tôi ở đa số người dân làm nông . Tình hình thực tế học sinh lớp 3 ở đây vốn từ của các em còn hạn chế . Các em chỉ hiểu nghĩa của các từ ngữ ở mức độ đơn giản trong khi từ ngữ tiếng Việt vô cùng phong phú. Đa số gia đình các em còn nghèo, cha mẹ còn lo đi làm để kiếm sống, chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của các em.
Phân môn Chính tả có một vị trí rất quan trọng ở bậc tiểu học bởi vì giai đoạn Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành kĩ năng chính tả cho học sinh. Chính tả được bố trí thành một phân môn độc lập, có tiết dạy riêng trong khi bậc trung học cơ sở không có.
Phân môn Chính tả ở chương trình tiểu học có hai kiểu bài là chính tả đoạn bài và chính tả âm vần. Nội dung các bài chính tả âm vần là luyện viết đúng chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ viết sai chính tả. Thời gian dành cho bài tập chính tả âm vần dù là rất ngắn so với chính tả đoạn bài song việc rèn kỹ năng qua bài tập đó có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh. Qua các bài tập chính tả âm vần các em được rèn luyện để tránh việc viết sai chính tả các chữ ghi tiếng có âm, vần, thanh dễ lẫn nhằm đạt mục tiêu môn học.
2. ThỰC trạng học sinh :
Tính chất nổi bật của phân môn Chính tả là thực hành bởi vì chỉ có thể hình thành các kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh thông qua thực hành, luyện tập.
Điều đó cho thấy kĩ năng viết của các em còn hạn chế làm ảnh hưởng tới kết quả học tập ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
- Học sinh viết sai chính tả chủ yếu do các em bị mất căn bản từ lớp dưới, chưa nắm vững âm vần, chưa phân biệt được cách phát âm của GV, chưa hiểu rõ nghĩa của từ, chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú ý khi viết chính tả.
- Học sinh viết sai chính tả do một số lỗi sau :
- Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, thiếu dấu thanh…)
- Lỗi về các vần khó ( uênh, oang, oeo, uyên, uyêt…)
- Lỗi do phát âm sai ( at - ac, an - ang, iu - iêu…)
- Lỗi do không hiểu nghĩa của từ ( để dành - tranh giành )
- Lỗi do không nắm được qui tắc chính tả ( gh, ngh chỉ đứng trước i, e, ê. Cách ghi âm đệm )
Qua thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
a/ Về thanh điệu: Học sinh không phân biệt được hai thanh hỏi, ngã.
Ví dụ: sữa chữa , suy nghỉ
b/ Về âm đầu:
Học sinh còn viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ g / gh: đua ge
+ ng / ngh : củ ngệ
+ c / k: cây céo
+ ch / tr: con chăn
+ s / x: chim xẻ
+ v / d / gi: dụ lúa
+ r / g: cá gô
Qua thực tế giảng dạy trong nhiều năm tôi nhận thấy lỗi về ch/ tr; s/ x; r/ g ; v/d/ gi là phổ biến hơn cả.
c/Về âm chính:
Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:
+ ai / ay / ây: mây bai
+ ao / au / âu: lao bàn
+ oe/ eo: mạnh khẻo
+ iu/ êu / iêu: chìu chuộng
+ oi/ ôi / ơi: kêu gội
+ ăm/ âm: con tầm
+ im/ iêm :lúa chim
+ ăp/ âp: gập gỡ
+ ip / iêp: liên típ
+ ui/ uôi: đầu đui
+ um/ uôm / ươm: con buốm
+ ưi/ ươi: trái bửi
+ ưu/ ươu: con khứu
d/Về âm cuối:
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ at/ ac: đồ đạt
+ an/ ang: cây bàn
+ ăt/ ăc: mặt quần áo
+ ăn/ ăng: khăng quàng
+ ât/ âc: trái gất
+ ân/ âng: cái câng
+ êt/ êch: chênh lệt
+ ên/ ênh: lên đên
+ iêt/ iêc: thân thiếc
+ ut/ uc: núc áo
+ uôn/ uông: mong muống
+ uôt/ uôc: trắng muốc
+ ươn/ ương: con lương
3/ Về dạy chính tả của giáo viên:
Hạn chế lớn nhất là chưa phát âm chuẩn, do ảnh hưởng tiếng địa phương nên giáo viên ở mỗi vùng miền có cách phát âm chưa chính xác ở một số từ.
Người miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm
cuối n / ng / nh; t / c / ch. Hai bán âm cuối i/u lại được ghi bằng 4 con chữ i / y
(trong tai/tay); u/o ( trong cau/ cao ), do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh miền Nam. Mặt khác còn lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch / tr; s/ x; d/ gi; v/ d, phát âm không phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã.
Trong khi đó một số người miền Bắc chưa phân biệt l / n; d / gi.
4/Về chữ quốc ngữ:
Ngoài ra trong qui ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng. Ví dụ : / k / ghi bằng c, k, q, âm gờ ghi bằng / g /, gh; âm / ng / ghi bằng ng, ngh.
Do sự phức tạp của chữ quốc ngữ, ví dụ: / ă / lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au. Các nguyên âm đôi iê, ươ, uô lại được ghi bằng các dạng iê, yê, ia, ya, ươ, ưa, uô, ua (chia-khuya; chiến-tuyến; lương- lửa; buôn-mua).Âm đệm lại được ghi bằng hai con chữ o và u ( ví dụ: hoa - huệ ).
III- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LỖI CHÍNH TẢ:
Trước tình hình HS viết còn sai nhiều lỗi chính tả, tôi đã áp dụng một số biện pháp khắc phục như sau :
1. phương pháp
Để việc dạy học chính tả đạt hiệu quả ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt giáo viên cần hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ….tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai sót.
Để dạy tốt người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề, có kiến thức cơ bản về ngữ âm học, từ vựng học, ngữ nghĩa học… có liên quan đến chính tả.
Nắm vững phương pháp đặc trưng của phân môn chính tả. Kết hợp linh hoạt các phương pháp giảng dạy sao cho sát hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
2.1/ Luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, trước hết giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho mình và cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Do đó có đọc đúng và ghi nhớ âm đúng thì khi giáo viên đọc, học sinh sẽ tái hiện và viết đúng. Giáo viên phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng.
2.2/ Phân tích so sánh:
-Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “nặng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “nặn” giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này.
- Nặng = N + ăng + thanh nặng
- Nặn = N + ăn + thanh nặng
So sánh để thấy sự khác nhau, tiếng “nặng”có âm cuối là “ng”,tiếng “nặn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ cách phát âm và cách viết sẽ không viết sai.
2.3/ Giải nghĩa từ:
Do phương ngữ của từng miền khác nhau, cách phát âm đôi khi chưa thống nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm rõ nghĩa của từ để viết cho đúng.
Ví dụ: Học sinh đọc “suy nghỉ” nhưng viết “suy nghĩ” do đó học sinh cần hiểu “nghỉ” có nghĩa là hoạt động bị ngừng lại, còn “nghĩ” là tính toán điều gì đó. Vì vậy phải viết là “suy nghĩ”.
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn…nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là HS đã hiểu nghĩa từ ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh… với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ.
2.4/ Ghi nhớ mẹo luật chính tả:
* Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: Các âm đầu k, gh, ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê. Ngoài ra giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như sau :
* Để phân biệt âm đầu s/ x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s : si, sồi, sả, sứ, sắn, sung, sao, sim, su su, sầu đâu, sơn trà, sậy, sấu, sến, sam, sán, sầu riêng, so đũa…sáo, sâu, sên, sam, sán, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, sư tử…
* Để phân biệt âm đầu tr/ ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu bằng ch: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng… chuột, chó, chí, chồn, chuồn chuồn, chào mào, châu chấu, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
* Luật bổng - trầm ( luật hỏi- ngã trong từ láy )
Đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã. Nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại ).
Có thể cho học sinh thuộc hai câu thơ sau:
Chị huyền mang nặng ngã đau
Anh sắc không hỏi bị đau chỗ nào.
Ví dụ: Bổng:
Ngang + hỏi : vui vẻ, trong trẻo…
Sắc + hỏi : mát mẻ, vất vả…
Hỏi + hỏi : lỏng lẻo, thủ thỉ…
Trầm:
Huyền + ngã : sẵn sàng, vững vàng…
Nặng + ngã : mạnh mẽ, vội vã…
Ngã + ngã : nhõng nhẽo, dễ dãi…
2. 5/ Làm các bài tập chính tả:
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập tận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp các em rút ra các qui tắc chính tả để ghi nhớ.
1- Bài tập trắc nghiệm :
Khoanh tròn chữ cái trước từ ngữ viết đúng :
a- căn dặn b- căng nhà c- kiêu căng
d- nhọc nhằn e- lằng nhằng g- cằng nhằng
h- vắng mặt i- vắn tắt k- vuông vắng
2- Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả.
chung sức chung thành
chim xẻ xẻ ván
nghèo đói ngoằn ngoèo
3- Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính tả.
A B
a- cuộn trâu (1)
b- ý rau (2)
c- chuồng sẻ (3)
d- khuôn sóng (4)
e- luống muốn (5)
g- suôn mẫu (6)
2
4- Bài tập lựa chọn:
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
Chị Tư đang…………xe đạp (sửa, sữa ).
Đôi………này đế rất………. (dày, giày).
Bài viết của em còn………… sài (sơ, xơ ).
Em thích nghe kể…………hơn đọc……… ( truyện, chuyện ).
5- Bài tập phát hiện:
+ Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng.
Đàn xếu đang sải cánh trên cao.
Quê hương là con dìu biếc.
Hồ về thu, nước chong vắt, mênh mông.
6- Bài tập điền khuyết:
Điền vào chỗ trống cho phù hợp:
d, r hoặc gi : …án cá, ….ễ….ãi, đêm….ao thừa, xếp hàng….ọc.
s hoặc x :….ôn….ao,….a….ôi,….ung phong, đơn….ơ.
ươn hoặc ương : s……mù, v……rau,cá…………..,vấn v………….
ât hoặc âc : gió b….., thứ nh……,quả g…..,m…….ong, ph….. cờ
iu hoặc iêu: th…đốt, thả d…, nhịp đ…, gió h…h…, buồn th…., x…….vẹo
7- Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ trái nghĩa.
* Tìm các từ chứa có vần “ ươt ” hoặc “ ươc ”có nghĩa như sau;
Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ: …………
Thi không đỗ : ……………
Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh : ……………
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
Cây trồng để làm đẹp : …….
Khung gỗ để dệt vải : ………
Trái nghĩa với từ thật thà : ……..
Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố : ………
*Tìm các từ ngữ chỉ đồ vật có thanh hỏi: ………
*Tìm các từ ngữ chỉ đồ vật có thanh ngã: ………
8- Bài tập phân biệt:
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
chúc - chút nắng - nắn
no - lo sáu - sáo
dành-giành chiên - chuyên
9- Bài tập giải câu đố:
- Chọn dấu “ hỏi ” hay dấu “ ngã ” để đặt trên những chữ nghiêng rồi giải câu đố sau:
Mặt tròn như một chiếc nong
Lưng lưng bụng nước, mát trong suốt đời
Chăng bao giờ nói một lời
Săn sàng giúp đơ mọi người cần em.
(Là cái gì? )
* Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai.Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những qui tắc chính tả, hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhằm hình thành các kĩ xảo chính tả cần đưa ra những trường hợp viết sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó hướng học sinh đi đến cái đúng.
3- Tổ chức dạy học :
Khi tổ chức các hoạt động thực hành luyện tập, giáo viên lựa chọn hình thức luyện tập phù hợp đối tượng học sinh và phù hợp với nội dung của từng bài tập nhằm tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập.
Trong quá trình học sinh làm bài, giáo viên quan sát cá nhân học sinh, nhóm học sinh để đôn đốc hướng dẫn và biết được những bài làm sai để tổ chức cho học sinh nhận xét và sửa chữa. Đối với dạng bài tập không chỉ có đáp án đúng duy nhất, giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập dưới hình thức trò chơi hoặc thảo luận nhóm thì hiệu quả và việc chữa bài tối ưu hơn cả. Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét góp ý bài của bạn, chỉ ra được lỗi để cùng chữa. Trường hợp nếu học sinh không phát hiện ra lỗi, giáo viên gợi ý để học sinh nhận ra và chữa lỗi. Khi đánh giá, ngoài việc chấm bài cho học sinh, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tự chấm bài hoặc chấm bài cho bạn dựa vào đáp án đúng và hướng dẫn chấm của giáo viên. Qua mỗi bài tập giáo viên tổng kết ý kiến và chốt lại nội dung kiến thức cần ghi nhớ và kỹ năng cần rèn luyện.
- Giáo viên nên tuyên dương, khen thưởng động viên kịp thời tạo hứng thú cho các em say mê học tập.
IV . Kết luận chung:
Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân mắc lỗi, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục là rất cần thiết không thể thiếu trong quá trình dạy học Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không đựơc nôn nóng. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một học kỳ. Nếu giáo viên không biết hướng dẫn, chờ đợi thì kết quả sẽ không cao.
- Phải dùng nhiều hình thức rèn luyện, khen thưởng và động viên học sinh kịp thời. Hạn chế không nên trách phạt, chê các em trước lớp làm cho các em có mặc cảm và bạn bè có ấn tượng không tốt về các em. Bên cạnh đó giáo viên phải khích lệ, động viên học sinh phải kiên trì, chăm chỉ rèn luyện mới đạt được kết quả tốt.
Vĩnh nhuận , ngày 5 tháng 3 năm 2011
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Như Hổ
Dung lượng: 28,70KB|
Lượt tài: 0
Loại file: rar
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)