CƠ HỌC CỔ ĐIỂN
Chia sẻ bởi Phạm Thị Thùy Oanh |
Ngày 26/04/2019 |
55
Chia sẻ tài liệu: CƠ HỌC CỔ ĐIỂN thuộc Vật lí 6
Nội dung tài liệu:
CHÀO THẦY CÔ VÀ CÁC BẠN.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA
CƠ HỌC CỔ ĐIỂN
Những viên gạch đầu tiên của bộ môn cơ học dường như được xây nền từ thời Hy Lạp cổ đại. Những kết quả nghiên cứu đầu tiên được ngày nay biết đến là của Archimedes(287-212 TCN). Chúng bao gồm định lý mang tên ông trong thủy tĩnh học, khái niệm về khối tâm và nghiên cứu cân bằng của đòn bẩy.
Cơ học được đánh thức vào thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu với những tiến bộ vượt bậc vào thế kĩ XVI. Những tên tuổi lớn nhất của giai đoạn huy hoàng này:
+ Nhà khao học người Ba Lan Nicolai Copernic(1473-1543) -người đã phủ nhận mô hình Trái đất là trung tâm của Vũ trụ và mô tả chuyến động đúng đắn của hệ mặt trời.
+Nhà thiên văn học người Đức johannes Kepler(1571-1630)- người đã phát biểu ba định luật mang tên ông về chuyển động của các hành tinh.
+ Nhà bác học thiên tài người Ý Galileo Galilei(1564-1642). Ông đã đưa ra khái niệm gia tốc, phát biểu vaò năm 1632 nguyên lí tương đối Galileo và nguyên lí quán tính.
Ông cũng đã nghiên cứu đến rất nhiều vấn đề khác nhau của cơ học:con lắc, mặt phăng nghiên, sự rơi tự do.
Thế kỉ XVII, nhà khoa học người pháp blaise pascal(1623-1662) đã có những nghiên cứu quan trọng vế thủy tĩnh học. Nhà vật lý người hà lan Christiaan Huygens(1629-1695) đã phân tích chuyển động quay, đặc biệt là dao động của con lắc và đưa khái niệm về động năng cũng như về lực hướng tâm.
Đặc biệt, nhà bác học người Anh Issac Newton(1642-1727) đã xuất bản cuớn sách Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, trong đó đã nêu lên ba định luật mang tên ông, tạo nên nền tảng của cơ học cổ điển.
Ngoài ra, Newton cũng đã phát biểu định luật vạn vật hấp dẫn của vũ trụ.
Thế kỉ XVIII -thế kỉ của cơ học giải tích. Nhà bác học người Thụy Sĩ Leonhard Euler(1707-1783) đã phát biểu những phương trình về cơ học chất lưu. Ông cũng tham gia vào việc xây dựng nền cơ học giải tích cùng với Louis Joseph lagrange(1736-1813) và Jean Le rond d’Alembert(1717-1783)
William Rowan Hamiton(1805-1865) đã đề xuất ra phép khai triễn chính được biết đến với tên phương trình Hamiton. Chúng ta cũng có thể kể đến Henri Poincare(1854-1912) với những đóng góp trong cơ học tính toán. Cuối cùng có rất nhiều sự mở rộng của cơ học cổ điển trong lĩnh vực về các môi trường liên tục.
KL: Chúng ta không được phép quên mặc dù ngay nay đã có rất nhiều những phát minh và khám phá trong cơ học lượng tử và cơ học tương đối ở thế kỉ XX nhưng những nghiên cứu về hệ hỗn độn trong những năm 1970, về những áp dụng của cơ học cổ điển vẫn là một phần to lớn trong lâu đài vật lý học. Mặt khác, vẫn còn đó nguyên vẹn rất nhiều vấn đề chưa giải quyết trong cơ học cổ điển, đắc biệt là những vấn đề liên quan đến dao động kép.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA
CƠ HỌC CỔ ĐIỂN
Những viên gạch đầu tiên của bộ môn cơ học dường như được xây nền từ thời Hy Lạp cổ đại. Những kết quả nghiên cứu đầu tiên được ngày nay biết đến là của Archimedes(287-212 TCN). Chúng bao gồm định lý mang tên ông trong thủy tĩnh học, khái niệm về khối tâm và nghiên cứu cân bằng của đòn bẩy.
Cơ học được đánh thức vào thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu với những tiến bộ vượt bậc vào thế kĩ XVI. Những tên tuổi lớn nhất của giai đoạn huy hoàng này:
+ Nhà khao học người Ba Lan Nicolai Copernic(1473-1543) -người đã phủ nhận mô hình Trái đất là trung tâm của Vũ trụ và mô tả chuyến động đúng đắn của hệ mặt trời.
+Nhà thiên văn học người Đức johannes Kepler(1571-1630)- người đã phát biểu ba định luật mang tên ông về chuyển động của các hành tinh.
+ Nhà bác học thiên tài người Ý Galileo Galilei(1564-1642). Ông đã đưa ra khái niệm gia tốc, phát biểu vaò năm 1632 nguyên lí tương đối Galileo và nguyên lí quán tính.
Ông cũng đã nghiên cứu đến rất nhiều vấn đề khác nhau của cơ học:con lắc, mặt phăng nghiên, sự rơi tự do.
Thế kỉ XVII, nhà khoa học người pháp blaise pascal(1623-1662) đã có những nghiên cứu quan trọng vế thủy tĩnh học. Nhà vật lý người hà lan Christiaan Huygens(1629-1695) đã phân tích chuyển động quay, đặc biệt là dao động của con lắc và đưa khái niệm về động năng cũng như về lực hướng tâm.
Đặc biệt, nhà bác học người Anh Issac Newton(1642-1727) đã xuất bản cuớn sách Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên, trong đó đã nêu lên ba định luật mang tên ông, tạo nên nền tảng của cơ học cổ điển.
Ngoài ra, Newton cũng đã phát biểu định luật vạn vật hấp dẫn của vũ trụ.
Thế kỉ XVIII -thế kỉ của cơ học giải tích. Nhà bác học người Thụy Sĩ Leonhard Euler(1707-1783) đã phát biểu những phương trình về cơ học chất lưu. Ông cũng tham gia vào việc xây dựng nền cơ học giải tích cùng với Louis Joseph lagrange(1736-1813) và Jean Le rond d’Alembert(1717-1783)
William Rowan Hamiton(1805-1865) đã đề xuất ra phép khai triễn chính được biết đến với tên phương trình Hamiton. Chúng ta cũng có thể kể đến Henri Poincare(1854-1912) với những đóng góp trong cơ học tính toán. Cuối cùng có rất nhiều sự mở rộng của cơ học cổ điển trong lĩnh vực về các môi trường liên tục.
KL: Chúng ta không được phép quên mặc dù ngay nay đã có rất nhiều những phát minh và khám phá trong cơ học lượng tử và cơ học tương đối ở thế kỉ XX nhưng những nghiên cứu về hệ hỗn độn trong những năm 1970, về những áp dụng của cơ học cổ điển vẫn là một phần to lớn trong lâu đài vật lý học. Mặt khác, vẫn còn đó nguyên vẹn rất nhiều vấn đề chưa giải quyết trong cơ học cổ điển, đắc biệt là những vấn đề liên quan đến dao động kép.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Thị Thùy Oanh
Dung lượng: |
Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)