Chuyên đề: Tìm hiểu một số biện pháp nghệ thuật trong

Chia sẻ bởi Khánh Nguyễn | Ngày 12/10/2018 | 234

Chia sẻ tài liệu: Chuyên đề: Tìm hiểu một số biện pháp nghệ thuật trong thuộc Tư liệu tham khảo

Nội dung tài liệu:

Trường THCS Đông Ngũ
Tổ xã hội
Chuyên đề:
Tìm hiểu một số biện pháp nghệ thuật trong
văn bản tự sự hiện đại Việt Nam
Báo cáo lí thuyết: Nguyễn Khánh
Thực hành: Nguyễn Hương Nhài

I./ L‎í do chọn chuyên đề:

1.Cơ sở lí luận - Môn Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong trường phổ thông, có ‎ y nghĩa trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh. Học văn là học làm người, học các phép tắc ứng xử trong cuộc sống. Mặt khác, đây là một môn học nghệ thuật, kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sức sáng tạo của người học. Nên để dạy và học tốt môn NV, người dạy và người học phải không ngừng trau dồi vốn kiến thức ngôn ngữ, từ vựng, các kiến thức liên quan về các hình thức nghệ thuật, các nhà văn, nhà thơ,các câu ca dao tục ngữ, lấy đó làm vốn sống, vốn kinh nghiệm cho bản thân.
- Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khóa VIII nêu rõ: “Đổi mới phương pháp GDĐT, khắc phục lối truyền thụ một chiều,rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học”; “Phương pháp GD phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và y chí vươn lên”
- Trong một TPVH có giá trị thì các hình thức nghệ thuật luôn thống nhất với nội dung. Bêlinxki-Nhà phê bình lí luận VH Nga viết rằng: “trong TPNT, nội dung và các hình thức nghệ thuật phải luôn hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác. Nếu hủy diệt hình thức nghệ thuật thì cũng là hủy diệt nội dung tư tưởng của TP và ngược lại cũng vậy”.
- Hêghen viết: “TPVH mà thiếu đi hình thức nghệ thuật thích đáng thì không phải là 1 TPVH thực sự. Và đối với người nghệ sĩ khi đó sẽ là một biểu hiện tồi nếu như người ta nói rằng về ND thì TP anh tốt, nhưng nó thiếu đi các hình thức nghệ thuật thích đáng. Chỉ có những TPVH mà ND và hình thức thống nhất với nhau mới là những TPVH đích thực”.
-Trong môn NV, người học chỉ chú trọng vào việc tìm hiểu về nội dung mà quên đi những hình thức nghệ thuật của TP thì lúc đó việc dạy và học chắc chắn sẽ không đạt hiệu quả cao. Nó trở nên khô khan, cững nhắc, sống sượng. HS sẽ không hiểu sâu, hiểu hết được những điều mà tác giả muốn truyền đạt đến, đôi khi còn dẫn tới cách hiểu sai, lệch lạc giá trị của tác phẩm.
- Các hình thức nghệ thuật là yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm văn học nói chung và trong thể loại truyện ngắn tự sự hiện đại VN nói riêng. Người học phải nắm bắt được toàn diện tác phẩm, có một cái nhìn bao quát về cả nội dung và nghệ thuật. Bút pháp trần thuật mang nhiều ẩn y/.
- Việc cần thiết là phải cho HS nắm được các biện pháp nghệ thuật trong 1 VB, xâu chuỗi, và thực hiện tích hợp trong 3 phân môn.
2. Cơ sở thực tiễn:
- Về phía HS: HS có nhiều hạn chế trong việc tiếp thu và cảm thụ tác phẩm tự sự. Một mặt do trình độ nhận thức của HS còn kém, chưa có tư duy sáng tạo.
HS chưa nắm bắt được mối liên hệ giữa nội dung và hình thức của 1 tác phẩm.
Hiện nay HS thường sử dụng sách tham khảo nhiều và các tài liệu do các NXB địa phương ấn hành, chất lượng kém. Có nhiều ‎ y kiến khác nhau. HS bị lúng túng, thiếu tự tin, thiếu sự tìm tòi, đánh giá, phân tích chi tiết. Không phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của HS.
HS chưa xác định được kiến thức trọng tâm
Thực tế hiện nay HS bị lỗ hổng kiến thức từ các cấp lớp học, học trước quên sau. Cho nên HS rất khó tiếp thu được kiến thức của 1 VB khi chứa nhiều hình thức nghệ thuật. HS sẽ không nắm bắt được hết các giá trị của VB.
- Phân tích tác phẩm tự sự không bám sát vào hình thức nghệ thuật để chỉ ra cái hay cái đẹp của nội dung tác phẩm.
- Phần lớn HS chỉ biết diễn xuôi nội dung 1 cách cứng nhắc và gượng ép, vụng về, tách nội dung ra khỏi các hình thức tự sự. Vd: khi phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng – Kim Lân thì HS chưa nắm được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, thị không thể nào tìm hiểu được những chuyển biến trong đời sống tâm lí của ông hai và người nông dân nói chung giai đoạn 1945).
Nguyên nhân khách quan nữa là hiện nay do một số văn bản dài so với thời lượng từ 45-90 phút nghiên cứu trên lớp, HS rất khó có thể khai thác hết được toàn bộ các giá trị tác phẩm.
Về phía GV:
- Tình hình thực tế hiện nay là còn nhiều GV trẻ, nên việc làm thế nào để truyền đạt hết nội dung kiến thức cả về nội dung và nghệ thuật của VB là tương đối khó khăn. Thao tác xử lí bài giảng còn hạn chế. Nhiều GV chỉ đi sâu khai thác nội dung, chưa chú trọng khai thác nghệ thuật VB.
- GV còn lúng túng khi đưa ra hệ thống câu hỏi khai thác nghệ thuật
- Khả năng kết hợp từ nghệ thuật để làm nổi bật nội dung còn yếu.
- Tích hợp kém, không để ‎ tích hợp học. Nhiều VB mới đưa vào cũng gây không ít khó khăn khi tìm hiểu và truyền thụ kiến thức..
- Kiến thức lí luận văn học còn yếu.
Chính vì những lí do trên mà tổ xã hội chúng tôi đã chọn chuyên đề này để nghiên cứu thưc hiện, hi vọng sẽ làm tăng chất lượng dạy và học, gây hứng thứ với GVvà HS.

II./ Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu.
- Điều tra thực tế, Phiếu thăm dò.
- Dạy thực nghiệm.

III./Mục đích nghiên cứu
- Giúp HS hiểu thêm về các biện pháp nghệ thuật trong VBTSHDVN.
- Biết cách phân tích và đưa ra tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó trong mối liên hệ với nội dung tác phẩm.
- Biết vận dụng các hiểu biết để phân tích các TPTS nói chung và TPTSHDVN nói riêng.
- GV có thể áp dụng vào các bài dạy, biết cách khai thác và truyền thụ tốt hơn tới HS các hình thức nghệ thuật.

IV./ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn ở đối tượng HS khối 9 trường THCS Đông Ngũ.
- Phạm vi là các văn bản tự sự hiện đại VN sau CMT8 (trong 2 cuộc kháng chiến của dân tộc va giai đoạn sau 1975).
+ Gồm 5 tác phẩm: Làng-Kim Lân-1948
2.Lặng lẽ SaPa- Nguyễn Thành Long-1970
3. Chiếc lược ngà Nguyễn Quang Sáng-1966
4. Những ngôi sao xa xôi-Lê Minh Khuê-1971
5. Bến Quê-Nguyễn Minh Châu- trong tập Bến Quê-1985.
- Bài dạy thực nghiệm: tiết thứ 2 VB Chiếc lược ngà - NV9( HKI)

V./ Nội dung và cách tiến hành

1. Một số khái niệm và kiến thức liên quan.
Khi tìm hiểu VBTS thì bắt buộc người GV cần nắm vững những khái niệm liên quan để khai thác tốt nhất VB.
- TPTS: khác với tác phẩm trữ tình, hiện thực được tái hiện qua những cảm xúc, tâm trạng, ‎ y nghĩ con người, được thể hiện qua những lời lẽ, bộc bạch, thổ lộ.-> TPTS phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó. Qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó.- đây là yếu tố đặc trưng để nhận diện TPTS.
(hiểu rộng ra: TPTS gồm anh hùng ca, sử thi, truyện thơ, trường ca, thơ trường thiên, truyện ngụ ngôn).
- Truyện ngắn tự sự: (chúng tôi nghiên cứu trong phạm vi nhỏ) là hình thức ngắn của tự sự, khuôn khổ ngắn, tái hiện lại cuộc sống đương thời. Nội dung của truyện ngắn có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự, hay sử thi. Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời, một đoạn đời hay một chốc lát trong cuộc sống nhân vật. Cái chính của truyện ngắn không phải là hệ thống sự kiện mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời.
Truyện ngắn nói chung không phải là vì truyện của nó ngắn mà vì cách nắm bắt cuộc sống của thể loại. ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. ở truyện ngắn, bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Kết cấu thường là sự liên tưởng, tương phản.Y/ ghĩa quan trọng nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và mang nhiều ẩn y/.
- Nhân vật: Nhân vật là những con người có hành động, ngôn ngữ và tính cách. Nhân vật là trung tâm của truyện, thể hiện các quan điểm của tác giả.Nhân vật trong truyện ngắn thường là một mảng nhỏ của thế giới. Tồn tại các kiểu nhân vật như:
+Nhân vật chức năng (hay mặt nạ), không có đời sống nội tâm, phẩm chất và đặc điểm cố định đến cuối truyện
+Nhân vật loại hình: thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức của một laọi người nhất định của xã hội (Anh thanh niên-LLSP).
+ Nhân vật tính cách: là nhân vật có diễn biến nội tâm phức tạp, không đồng nhất, thường có một quá trình phát triển với nhiều cung bậc, tâm trạng khác nhau. (Thu-Chiếc lược ngà, ông Hai- Làng, Phương Định-NNSXX) có diễn biến phức tạp, đa dạng, nhiều chiều.
+ Nhân vật tư tưởng: Nhân vật này cũng thể hiện một cá tính, một nhân cách nhưng cái chính là một hiện tượng tư tưởng, một ‎ thức diễn ra trong đời sống. (nhân vật “tôi” trong truyện ngắn bức tranh, nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn Bến Quê của Nguyễn Mnh Châu).
- Cốt truyện: Là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện lớn, truyện nhỏ cốt truyện nói chung cũng bao gồm các thành phần chính là thắt nút – phát triển – cao trào – mở nút. Có cốt truyện thì đơn giản( như truyện Lặng lẽ sapa- cốt truyện chỉ xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già,cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tư
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Khánh Nguyễn
Dung lượng: 70,00KB| Lượt tài: 8
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)