CHUYÊN ĐỀ: MỘT SỐ PP VÀ KỸ NĂNG DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
Chia sẻ bởi Lương Chí Tân |
Ngày 12/10/2018 |
62
Chia sẻ tài liệu: CHUYÊN ĐỀ: MỘT SỐ PP VÀ KỸ NĂNG DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
CHUYÊN ĐỀ
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ NĂNG
DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT TỰ KỶ
TRONG CÁC LỚP HỌC HÒA NHẬP”
PHẦN A.
GIỚI THIỆU TRẺ TỰ KỶ
Trẻ tự kỷ thường thể hiện nhu cầu, mong muốn và giao
tiếp không giống với trẻ em khác. Trong một số trường
hợp thì sự khác biệt trong giao tiếp có thể có vấn đề,
thậm chí là vấn đề nghiêm trọng đối với trẻ. Giáo viên cần
sử dụng những cách thức giao tiếp, phương pháp giảng
dạy đặc biệt, các kĩ năng quản lý hành vi phù hợp với
những trẻ này.
Trong nội dung báo cáo này, chúng ta sẽ đi sâu tìm
hiểu một số phương pháp và kĩ năng dạy học đã được
ứng dụng hiệu quả trong trường học ở các lớp học
hòa nhập.
PHẦN B. XÁC ĐỊNH HÀNH VI CỦA
TRẺ TỰ KỶ VÀ NGUYÊN NHÂN.
1. Xác định hành vi của trẻ tự kỷ:
Hành vi trẻ tự kỷ thường biểu hiện ở 3 đặc điểm chính:
- Kém phát triển các kĩ năng xã hội như: rất ít hoặc
không muốn giao tiếp, phản ứng chậm khi được hỏi,
không giao tiếp bằng mắt, không cảm xúc về người khác,
không quan tâm đến sự chia sẻ kinh nghiệm, không
thích người khác chạm vào mình.
- Hạn chế phát triển ngôn ngữ và ít giao tiếp như: không
thích bạn bè, không muốn nói chuyện với ai.
Thường sử dụng ngôn ngữ trùng lặp, rập khuôn hoặc
không bình thường, thiếu hoặc kém các hoạt động bắt
chước.
Ít có phản ứng khi được gọi tên, không có các biểu
hiện cảm xúc trên khuôn mặt, thường có các hành vi tự
gây hại đến bản thân, bực tức, giận dỗi khi các thói
quen hàng ngày bị thay đổi.
Thông thường, các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục
dùng “Phiếu kiểm tra Hannell, 2006” để xem xét hành vi
của trẻ tự kỷ.
PHIẾU KIỂM TRA HÀNH VI TRẺ TỰ KỶ
(HANNELL 2006)
* Khó khăn về giao tiếp không lời:
- Không dùng mắt để diễn đạt cảm xúc hoặc ý nghĩ;
- Không hiểu hoặc không phản ứng với giao tiếp bằng
mắt;
- Không dùng điệu bộ hoặc hành động để biểu hiện
cảm xúc hoặc ý nghĩ;
- Không hiểu điệu bộ của người khác;
- Không thể hiện cảm xúc trên khuôn mặt;
- Không hiểu biểu hiện trên khuôn mặt;
- Không cười nhiều;
- Không thích nghe hát ru hoặc bị chạm vào người.
* Khó khăn trong giao tiếp:
Không nói;
Rất chậm khi phản ứng;
Nhắc đi nhắc lại những gì người khác nói;
Nhắc lại một từ, cụm từ hoặc một câu hỏi;
Nhắc lại các từ và cụm từ vô nghĩa;
Nghe nhưng không phản ứng khi người khác nói;
Nói nhưng không hiểu sự lần lượt trong giao tiếp;
Nói nhưng lặp đi lặp lại một điều trong khi hội thoại;
Có khó khăn khi bắt chước hành động và điệu bộ
của người khác.
* Khó khăn về cảm xúc:
Không hiểu cảm xúc của người khác;
Không đưa cho người khác hoặc chỉ trỏ đồ vật của mình;
Không giao tiếp với bất cứ ai;
Không giao tiếp với ai, trừ bố mẹ hoặc thành viên trong gia đình;
Không thể hiện tình cảm yêu mến;
Không học các hành vi xã hội từ người khác;
Không hiểu các hành vi xã hội;
Hiểu sai cảm xúc hoặc hành động của người khác.
* Khó khăn trong tình bạn:
Không nhận thức được sự có mặt của người khác;
Không kết bạn hoặc tỏ ra thân thiện với bạn;
Cố gắng kết bạn, nhưng không thể kết bạn được;
Không tham gia vào các trò chơi hoặc chơi với trẻ khác;
Rất cảnh giác với người lạ;
Không hiểu sự chia sẻ, thông cảm;
Không hiểu công việc làm theo thứ tự, lần lượt.
* Khó khăn với hành vi xã hội:
Cư xử không phù hợp về mặt xã hội;
Không xấu hổ khi có các hành vi không phù hợp về mặt xã hội.
* Hành vi bất thường:
Các hành động lặp đi lặp lại như ném đá và vỗ tay;
Khoa tay trước mặt và nhìn người khác chăm chú;
Vụng về;
Đi bằng các gót chân (nhón gót) và có tư thế lạ thường khi đi lại;
Ít phản ứng khi bị đau hoặc không thoải mái;
Tự làm tổn thương đến bản thân mình như đập đầu, cắn tay, nghiến răng.
* Bị ám ảnh bởi sở thích hoặc thói quen:
Rất thích một vài đồ vật nào đó;
Rất đau khổ khi có sự thay đổi về vị trí đồ vật;
Rất đau khổ khi có sự thay đổi về thói quen hàng ngày;
Khăng khăng với những thói quen không có ý nghĩa hoặc các cách thức làm việc không đúng;
Lặp đi lặp lại các hành động, như sắp xếp các đồ vật thành hàng.
2. Nguyên nhân trẻ tự kỷ:
Trước thập niên 1990, trẻ tự kỷ được coi là rất ít.
Tuy nhiên, kể từ năm 1990 đến những năm 2000,
con số trẻ em được xác định là có hành vi tự kỷ tăng lên
đột biến, đặc biệt trẻ có hội chứng Asperger và tự kỷ loại
nhẹ.
Việc số lượng trẻ tự kỷ tăng lên là kết quả của phương
pháp xác định trẻ tự kỷ tốt hơn, đã dẫn đến nhận thức về
nhu cầu của trẻ có hành vi tự kỷ cũng tăng.
Tỷ lệ trẻ tự kỷ được báo cáo ở nhiều quốc gia là
khoảng 0,3% dân số. Số trẻ em trai gấp 4 lần số trẻ em
gái; tuy nhiên, đây là tỷ lệ các trẻ có hành vi tự kỷ ở mức
độ nhẹ.
Với các trẻ tự kỷ mức độ trung bình và nặng
thì tỷ lệ trẻ em trai và trẻ em gái là tương đượng nhau.
- Có quan điểm cho rằng trẻ tự kỷ là sản phẩm của những bậc cha mẹ không quan tâm đến con cái. Đây cũng là một quan điểm thường thấy ở nhiều nơi trên thế giới khi hội chứng tự kỷ được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, sau đó các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng lý giải này quá đơn giản và không thể coi đó là nguyên nhân dẫn đến tự kỷ.Tất nhiên, những đứa trẻ thuộc gia đình nghèo thường có nhiều loại khó khăn khác nhau; nhưng sau khi tìm hiểu, các nhà nghiên cứu đã nhận
thấy rất nhiều con em của những ông bố, bà mẹ có
thể nói là tuyệt vời cũng bị hội chứng này.
Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục, nhà tâm lý học và
các bác sĩ tin rằng nguyên nhân của hội chứng tự kỷ
là kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, có thể bao
gồm nhân tố về di truyền và môi trường, mặc dù
không có một nhân tố cụ thể nào được coi là nguyên
nhân của hội chứng tự kỷ.
PHẦN C. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ
KỸ NĂNG DẠY TRẺ TỰ KỶ TRONG CÁC
LỚP HỌC HÒA NHẬP.
Không có một phương pháp nào chữa khỏi cho trẻ
có hành vi tự kỷ. Một phần là do chưa có dấu hiệu sinh
lý nào có liên quan đến các triệu chứng của hội chứng
tự kỷ.
Các biện pháp chữa trị y tế đã được thử nghiệm
trong thời gian qua, nhưng chưa có biện pháp nào có
hiệu quả trong việc quản lý trẻ có hành vi tự kỷ hoặc
giúp loại trừ hành vi của trẻ tự kỷ.
BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM:
Anh, chị hãy nêu những nguyên nhân của
trẻ tự kỷ?
Tuy nhiên thông qua một số kĩ năng dạy học ở
trường và hỗ trợ có hiệu quả tại nhà, cũng có thể đạt
được những kết quả sau đây:
* Trẻ tự kỷ có thể giao tiếp và học được nhiều điều
nếu sử dụng phương pháp dạy học phù hợp.
* Các hành vi có vấn đề của một số trẻ có hành vi tự
kỷ có thể được ngăn ngừa thông qua các phương pháp
giao tiếp hiệu quả phù hợp với trẻ.
* Hầu hết trẻ tự kỷ có thể điều chỉnh được hành vi của
mình nếu có phương pháp hướng dẫn phù hợp.
1. Dạy trẻ tự kỷ bằng một số kĩ năng cơ bản:
Như chúng ta đã biết ở phần trên, những hành vi
điển hình của trẻ tự kỷ là: không thích các mối quan hệ,
không quan tâm và chơi với các bạn khác; không hiểu
khái niệm thời gian, không gian trong khi thực hiện một
công việc; thích làm việc tự do và chỉ thích một số công
việc quen thuộc; tính tổ chức trong nhiệm vụ công việc
kém; khó khăn trong việc xác định trình tự công việc.
Do đó, chúng ta áp dụng một số kĩ năng cơ bản như:
- Sử dụng nhiều đồ vật, đồ chơi mà trẻ thích.
- Giải thích cho trẻ rõ việc thực hiện nhiệm vụ.
Xây dựng lịch biểu hàng ngày, rõ ràng.
Cho trẻ hoạt động nhiều chủ đề để tạo điều kiện cho trẻ
hứng thú.
Dành thời gian, không gian hợp lý để trẻ được thực
hiện theo nhu cầu.
Cần tổ chức hoạt động liên tục cho trẻ, không để thời
gian trống.
Sử dụng nhiều phương tiện giao tiếp đa dạng: Thẻ
tranh, ký hiệu…
Động viên, khen thưởng kịp thời.
2. Đơn giản hóa kiến thức và kĩ năng:
Đối với trẻ có hành vi tự kỷ để học được những kiến
thức và kĩ năng mới, giáo viên cần chia nhỏ thành các
bước đơn giản hơn và liên kết những kiến thức mới
với những gì trẻ đã biết hoặc những vấn đề trẻ quan tâm.
Thách thức đối với người giáo viên là tìm ra cách
đơn giản nhất để tiến hành việc này tại lớp học, mới có
thể dạy cho trẻ các kĩ năng và kiến thức quan trọng
nhất.
(Những kĩ năng đơn giản mà các em cần học ở trường là vẽ một
đường thẳng, lấy nước uống, giơ tay xin cô giúp đỡ, cầm bút chì…)
3. Dạy kĩ năng xã hội cho trẻ tự kỷ:
Các kĩ năng xã hội cần được dạy cho trẻ có
hành vi tự kỷ rất đa dạng, tùy theo nhu cầu và khả năng
của trẻ.Tuy nhiên, thông thường trẻ có hành vi tự kỷ cần
học các kĩ năng đơn giản nhất như chào hỏi thầy cô và
bạn bè, xếp hàng ngay ngắn vào lớp học, không gây gổ
đánh lộn với các bạn cùng lớp, lần lượt trong khi hội
thoại…Tạo ra các trò chơi và các câu chuyện xã hội,
thông qua đó, trẻ tự kỷ có thể giao tiếp mà không cần sự
giúp đỡ, can thiệp của giáo viên. Đây là kĩ thuật dạy học
rất có ích, bởi vì các em học kĩ năng xã hội đặc biệt rất
hiệu quả khi được dạy bởi các bạn học sinh khác.
4. Dạy kĩ năng giao tiếp không lời và bằng
lời đối với trẻ tự kỷ:
- Các kĩ năng giao tiếp kém cũng là một trong các dấu
hiệu chính giúp chúng ta nhận biết trẻ có hành vi tự kỷ.
Tất cả trẻ tự kỷ không chỉ kém về kĩ năng giao tiếp có
lời mà các em còn kém trong kĩ năng giao tiếp không lời
(dùng cử chỉ, điệu bộ). Trẻ không hiểu hoặc không biểu
hiện cảm xúc trên khuôn mặt, cử chỉ, điệu bộ.
Trẻ tự kỷ nặng có thể không có kĩ năng giao tiếp
(không sử dụng các kĩ năng giao tiếp và không phản
ứng trước những gì người khác nói).
Khoảng 50% trẻ tự kỷ không bao giờ sử dụng
ngôn ngữ nói. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục
đã chứng minh điều đó.
Mặc dù giáo viên đã nỗ lực hết sức mình nhưng nhiều
học sinh tự kỷ không thể học giao tiếp một cách thuần
thục, thậm chí ở một số trường thì dường như trẻ tự kỷ
không thể học giao tiếp. Tuy vậy, bằng việc sử dụng các
phương pháp, ý tưởng giao tiếp không lời và bằng lời,
giáo viên có thể tạo ra sự khác biệt ở các em.
Điều này giúp cải thiện khả năng học của học sinh
trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội cũng
như khả năng thể hiện nhu cầu và mong muốn của trẻ
tự kỷ.
Dạy các kĩ năng giao tiếp đối với trẻ tự kỷ là việc
làm cho quá trình giao tiếp dễ tiếp cận và có ý nghĩa
hơn đối với học sinh khi thực hành. Thật là may mắn
nếu giáo viên có thể khuyến khích các em khác giúp
trẻ tự kỷ phát triển các kĩ năng giao tiếp, đây là một
công việc ý nghĩa và cần đạt được trong các lớp học
hòa nhập.
5. Đánh giá trẻ tự kỷ trong lớp học hòa nhập:
Những giáo viên làm việc hiệu quả là những người
có khả năng tổ chức các hoạt động dạy học mà còn
phải có khả năng đánh giá nhu cầu trong việc xây dựng
kế hoạch học tập của học sinh.
Quan sát kết quả học tập và việc thay đổi hành vi của
trẻ.
Đánh giá phải dựa trên sự tiến bộ của trẻ tự kỷ dù là
nhỏ nhất.
Điều chỉnh nội dung dạy học, tài liệu học tập cho phù
hợp với đối tượng trẻ.
BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM:
Anh, chị hãy trình bày một số phương pháp và
kỹ năng dạy trẻ tự kỷ trong các lớp học hòa nhập?
PHẦN D. KẾT LUẬN.
Giảng dạy trẻ có hành vi tự kỷ có kết quả tiến bộ là cả
một quá trình, đòi hỏi người giáo viên chẳng những phải
thật kiên trì, nhẩn nại trong việc giáo dục các em mà còn
phải có lòng nhân ái đối với trẻ.
Chính lòng nhân ái của người giáo viên tiểu học đã
quyết định quan trọng cho sự thành công của việc giáo
dục trẻ tự kỷ trong các lớp học hòa nhập.
CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE.
CHÚC THÀNH CÔNG VÀ HẠNH PHÚC!
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ NĂNG
DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT TỰ KỶ
TRONG CÁC LỚP HỌC HÒA NHẬP”
PHẦN A.
GIỚI THIỆU TRẺ TỰ KỶ
Trẻ tự kỷ thường thể hiện nhu cầu, mong muốn và giao
tiếp không giống với trẻ em khác. Trong một số trường
hợp thì sự khác biệt trong giao tiếp có thể có vấn đề,
thậm chí là vấn đề nghiêm trọng đối với trẻ. Giáo viên cần
sử dụng những cách thức giao tiếp, phương pháp giảng
dạy đặc biệt, các kĩ năng quản lý hành vi phù hợp với
những trẻ này.
Trong nội dung báo cáo này, chúng ta sẽ đi sâu tìm
hiểu một số phương pháp và kĩ năng dạy học đã được
ứng dụng hiệu quả trong trường học ở các lớp học
hòa nhập.
PHẦN B. XÁC ĐỊNH HÀNH VI CỦA
TRẺ TỰ KỶ VÀ NGUYÊN NHÂN.
1. Xác định hành vi của trẻ tự kỷ:
Hành vi trẻ tự kỷ thường biểu hiện ở 3 đặc điểm chính:
- Kém phát triển các kĩ năng xã hội như: rất ít hoặc
không muốn giao tiếp, phản ứng chậm khi được hỏi,
không giao tiếp bằng mắt, không cảm xúc về người khác,
không quan tâm đến sự chia sẻ kinh nghiệm, không
thích người khác chạm vào mình.
- Hạn chế phát triển ngôn ngữ và ít giao tiếp như: không
thích bạn bè, không muốn nói chuyện với ai.
Thường sử dụng ngôn ngữ trùng lặp, rập khuôn hoặc
không bình thường, thiếu hoặc kém các hoạt động bắt
chước.
Ít có phản ứng khi được gọi tên, không có các biểu
hiện cảm xúc trên khuôn mặt, thường có các hành vi tự
gây hại đến bản thân, bực tức, giận dỗi khi các thói
quen hàng ngày bị thay đổi.
Thông thường, các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục
dùng “Phiếu kiểm tra Hannell, 2006” để xem xét hành vi
của trẻ tự kỷ.
PHIẾU KIỂM TRA HÀNH VI TRẺ TỰ KỶ
(HANNELL 2006)
* Khó khăn về giao tiếp không lời:
- Không dùng mắt để diễn đạt cảm xúc hoặc ý nghĩ;
- Không hiểu hoặc không phản ứng với giao tiếp bằng
mắt;
- Không dùng điệu bộ hoặc hành động để biểu hiện
cảm xúc hoặc ý nghĩ;
- Không hiểu điệu bộ của người khác;
- Không thể hiện cảm xúc trên khuôn mặt;
- Không hiểu biểu hiện trên khuôn mặt;
- Không cười nhiều;
- Không thích nghe hát ru hoặc bị chạm vào người.
* Khó khăn trong giao tiếp:
Không nói;
Rất chậm khi phản ứng;
Nhắc đi nhắc lại những gì người khác nói;
Nhắc lại một từ, cụm từ hoặc một câu hỏi;
Nhắc lại các từ và cụm từ vô nghĩa;
Nghe nhưng không phản ứng khi người khác nói;
Nói nhưng không hiểu sự lần lượt trong giao tiếp;
Nói nhưng lặp đi lặp lại một điều trong khi hội thoại;
Có khó khăn khi bắt chước hành động và điệu bộ
của người khác.
* Khó khăn về cảm xúc:
Không hiểu cảm xúc của người khác;
Không đưa cho người khác hoặc chỉ trỏ đồ vật của mình;
Không giao tiếp với bất cứ ai;
Không giao tiếp với ai, trừ bố mẹ hoặc thành viên trong gia đình;
Không thể hiện tình cảm yêu mến;
Không học các hành vi xã hội từ người khác;
Không hiểu các hành vi xã hội;
Hiểu sai cảm xúc hoặc hành động của người khác.
* Khó khăn trong tình bạn:
Không nhận thức được sự có mặt của người khác;
Không kết bạn hoặc tỏ ra thân thiện với bạn;
Cố gắng kết bạn, nhưng không thể kết bạn được;
Không tham gia vào các trò chơi hoặc chơi với trẻ khác;
Rất cảnh giác với người lạ;
Không hiểu sự chia sẻ, thông cảm;
Không hiểu công việc làm theo thứ tự, lần lượt.
* Khó khăn với hành vi xã hội:
Cư xử không phù hợp về mặt xã hội;
Không xấu hổ khi có các hành vi không phù hợp về mặt xã hội.
* Hành vi bất thường:
Các hành động lặp đi lặp lại như ném đá và vỗ tay;
Khoa tay trước mặt và nhìn người khác chăm chú;
Vụng về;
Đi bằng các gót chân (nhón gót) và có tư thế lạ thường khi đi lại;
Ít phản ứng khi bị đau hoặc không thoải mái;
Tự làm tổn thương đến bản thân mình như đập đầu, cắn tay, nghiến răng.
* Bị ám ảnh bởi sở thích hoặc thói quen:
Rất thích một vài đồ vật nào đó;
Rất đau khổ khi có sự thay đổi về vị trí đồ vật;
Rất đau khổ khi có sự thay đổi về thói quen hàng ngày;
Khăng khăng với những thói quen không có ý nghĩa hoặc các cách thức làm việc không đúng;
Lặp đi lặp lại các hành động, như sắp xếp các đồ vật thành hàng.
2. Nguyên nhân trẻ tự kỷ:
Trước thập niên 1990, trẻ tự kỷ được coi là rất ít.
Tuy nhiên, kể từ năm 1990 đến những năm 2000,
con số trẻ em được xác định là có hành vi tự kỷ tăng lên
đột biến, đặc biệt trẻ có hội chứng Asperger và tự kỷ loại
nhẹ.
Việc số lượng trẻ tự kỷ tăng lên là kết quả của phương
pháp xác định trẻ tự kỷ tốt hơn, đã dẫn đến nhận thức về
nhu cầu của trẻ có hành vi tự kỷ cũng tăng.
Tỷ lệ trẻ tự kỷ được báo cáo ở nhiều quốc gia là
khoảng 0,3% dân số. Số trẻ em trai gấp 4 lần số trẻ em
gái; tuy nhiên, đây là tỷ lệ các trẻ có hành vi tự kỷ ở mức
độ nhẹ.
Với các trẻ tự kỷ mức độ trung bình và nặng
thì tỷ lệ trẻ em trai và trẻ em gái là tương đượng nhau.
- Có quan điểm cho rằng trẻ tự kỷ là sản phẩm của những bậc cha mẹ không quan tâm đến con cái. Đây cũng là một quan điểm thường thấy ở nhiều nơi trên thế giới khi hội chứng tự kỷ được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, sau đó các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng lý giải này quá đơn giản và không thể coi đó là nguyên nhân dẫn đến tự kỷ.Tất nhiên, những đứa trẻ thuộc gia đình nghèo thường có nhiều loại khó khăn khác nhau; nhưng sau khi tìm hiểu, các nhà nghiên cứu đã nhận
thấy rất nhiều con em của những ông bố, bà mẹ có
thể nói là tuyệt vời cũng bị hội chứng này.
Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục, nhà tâm lý học và
các bác sĩ tin rằng nguyên nhân của hội chứng tự kỷ
là kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, có thể bao
gồm nhân tố về di truyền và môi trường, mặc dù
không có một nhân tố cụ thể nào được coi là nguyên
nhân của hội chứng tự kỷ.
PHẦN C. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP VÀ
KỸ NĂNG DẠY TRẺ TỰ KỶ TRONG CÁC
LỚP HỌC HÒA NHẬP.
Không có một phương pháp nào chữa khỏi cho trẻ
có hành vi tự kỷ. Một phần là do chưa có dấu hiệu sinh
lý nào có liên quan đến các triệu chứng của hội chứng
tự kỷ.
Các biện pháp chữa trị y tế đã được thử nghiệm
trong thời gian qua, nhưng chưa có biện pháp nào có
hiệu quả trong việc quản lý trẻ có hành vi tự kỷ hoặc
giúp loại trừ hành vi của trẻ tự kỷ.
BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM:
Anh, chị hãy nêu những nguyên nhân của
trẻ tự kỷ?
Tuy nhiên thông qua một số kĩ năng dạy học ở
trường và hỗ trợ có hiệu quả tại nhà, cũng có thể đạt
được những kết quả sau đây:
* Trẻ tự kỷ có thể giao tiếp và học được nhiều điều
nếu sử dụng phương pháp dạy học phù hợp.
* Các hành vi có vấn đề của một số trẻ có hành vi tự
kỷ có thể được ngăn ngừa thông qua các phương pháp
giao tiếp hiệu quả phù hợp với trẻ.
* Hầu hết trẻ tự kỷ có thể điều chỉnh được hành vi của
mình nếu có phương pháp hướng dẫn phù hợp.
1. Dạy trẻ tự kỷ bằng một số kĩ năng cơ bản:
Như chúng ta đã biết ở phần trên, những hành vi
điển hình của trẻ tự kỷ là: không thích các mối quan hệ,
không quan tâm và chơi với các bạn khác; không hiểu
khái niệm thời gian, không gian trong khi thực hiện một
công việc; thích làm việc tự do và chỉ thích một số công
việc quen thuộc; tính tổ chức trong nhiệm vụ công việc
kém; khó khăn trong việc xác định trình tự công việc.
Do đó, chúng ta áp dụng một số kĩ năng cơ bản như:
- Sử dụng nhiều đồ vật, đồ chơi mà trẻ thích.
- Giải thích cho trẻ rõ việc thực hiện nhiệm vụ.
Xây dựng lịch biểu hàng ngày, rõ ràng.
Cho trẻ hoạt động nhiều chủ đề để tạo điều kiện cho trẻ
hứng thú.
Dành thời gian, không gian hợp lý để trẻ được thực
hiện theo nhu cầu.
Cần tổ chức hoạt động liên tục cho trẻ, không để thời
gian trống.
Sử dụng nhiều phương tiện giao tiếp đa dạng: Thẻ
tranh, ký hiệu…
Động viên, khen thưởng kịp thời.
2. Đơn giản hóa kiến thức và kĩ năng:
Đối với trẻ có hành vi tự kỷ để học được những kiến
thức và kĩ năng mới, giáo viên cần chia nhỏ thành các
bước đơn giản hơn và liên kết những kiến thức mới
với những gì trẻ đã biết hoặc những vấn đề trẻ quan tâm.
Thách thức đối với người giáo viên là tìm ra cách
đơn giản nhất để tiến hành việc này tại lớp học, mới có
thể dạy cho trẻ các kĩ năng và kiến thức quan trọng
nhất.
(Những kĩ năng đơn giản mà các em cần học ở trường là vẽ một
đường thẳng, lấy nước uống, giơ tay xin cô giúp đỡ, cầm bút chì…)
3. Dạy kĩ năng xã hội cho trẻ tự kỷ:
Các kĩ năng xã hội cần được dạy cho trẻ có
hành vi tự kỷ rất đa dạng, tùy theo nhu cầu và khả năng
của trẻ.Tuy nhiên, thông thường trẻ có hành vi tự kỷ cần
học các kĩ năng đơn giản nhất như chào hỏi thầy cô và
bạn bè, xếp hàng ngay ngắn vào lớp học, không gây gổ
đánh lộn với các bạn cùng lớp, lần lượt trong khi hội
thoại…Tạo ra các trò chơi và các câu chuyện xã hội,
thông qua đó, trẻ tự kỷ có thể giao tiếp mà không cần sự
giúp đỡ, can thiệp của giáo viên. Đây là kĩ thuật dạy học
rất có ích, bởi vì các em học kĩ năng xã hội đặc biệt rất
hiệu quả khi được dạy bởi các bạn học sinh khác.
4. Dạy kĩ năng giao tiếp không lời và bằng
lời đối với trẻ tự kỷ:
- Các kĩ năng giao tiếp kém cũng là một trong các dấu
hiệu chính giúp chúng ta nhận biết trẻ có hành vi tự kỷ.
Tất cả trẻ tự kỷ không chỉ kém về kĩ năng giao tiếp có
lời mà các em còn kém trong kĩ năng giao tiếp không lời
(dùng cử chỉ, điệu bộ). Trẻ không hiểu hoặc không biểu
hiện cảm xúc trên khuôn mặt, cử chỉ, điệu bộ.
Trẻ tự kỷ nặng có thể không có kĩ năng giao tiếp
(không sử dụng các kĩ năng giao tiếp và không phản
ứng trước những gì người khác nói).
Khoảng 50% trẻ tự kỷ không bao giờ sử dụng
ngôn ngữ nói. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục
đã chứng minh điều đó.
Mặc dù giáo viên đã nỗ lực hết sức mình nhưng nhiều
học sinh tự kỷ không thể học giao tiếp một cách thuần
thục, thậm chí ở một số trường thì dường như trẻ tự kỷ
không thể học giao tiếp. Tuy vậy, bằng việc sử dụng các
phương pháp, ý tưởng giao tiếp không lời và bằng lời,
giáo viên có thể tạo ra sự khác biệt ở các em.
Điều này giúp cải thiện khả năng học của học sinh
trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội cũng
như khả năng thể hiện nhu cầu và mong muốn của trẻ
tự kỷ.
Dạy các kĩ năng giao tiếp đối với trẻ tự kỷ là việc
làm cho quá trình giao tiếp dễ tiếp cận và có ý nghĩa
hơn đối với học sinh khi thực hành. Thật là may mắn
nếu giáo viên có thể khuyến khích các em khác giúp
trẻ tự kỷ phát triển các kĩ năng giao tiếp, đây là một
công việc ý nghĩa và cần đạt được trong các lớp học
hòa nhập.
5. Đánh giá trẻ tự kỷ trong lớp học hòa nhập:
Những giáo viên làm việc hiệu quả là những người
có khả năng tổ chức các hoạt động dạy học mà còn
phải có khả năng đánh giá nhu cầu trong việc xây dựng
kế hoạch học tập của học sinh.
Quan sát kết quả học tập và việc thay đổi hành vi của
trẻ.
Đánh giá phải dựa trên sự tiến bộ của trẻ tự kỷ dù là
nhỏ nhất.
Điều chỉnh nội dung dạy học, tài liệu học tập cho phù
hợp với đối tượng trẻ.
BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM:
Anh, chị hãy trình bày một số phương pháp và
kỹ năng dạy trẻ tự kỷ trong các lớp học hòa nhập?
PHẦN D. KẾT LUẬN.
Giảng dạy trẻ có hành vi tự kỷ có kết quả tiến bộ là cả
một quá trình, đòi hỏi người giáo viên chẳng những phải
thật kiên trì, nhẩn nại trong việc giáo dục các em mà còn
phải có lòng nhân ái đối với trẻ.
Chính lòng nhân ái của người giáo viên tiểu học đã
quyết định quan trọng cho sự thành công của việc giáo
dục trẻ tự kỷ trong các lớp học hòa nhập.
CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE.
CHÚC THÀNH CÔNG VÀ HẠNH PHÚC!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lương Chí Tân
Dung lượng: 392,00KB|
Lượt tài: 1
Loại file: ppt
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)