Chuyên đề lồng ghép GDGT ở môn sinh học
Chia sẻ bởi Hồ Văn Thiện |
Ngày 04/05/2019 |
45
Chia sẻ tài liệu: chuyên đề lồng ghép GDGT ở môn sinh học thuộc Sinh học 9
Nội dung tài liệu:
THỰC HIỆN
TẬP THỂ GV TỔ KHTN TRƯỜNG THCS NGUYỄN BỈNH KHIÊM
LỒNG GHÉP
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH VÀO MÔN SINH HỌC Ở TRƯỜNG THCS
Mục tiêu của nhà trường phổ thông là giáo dục và đào tạo học sinh trở thành những công dân có ích ,có đầy đủ năng lực và phẩm chất nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong tương lai.
A. MỞ ĐẦU
Kiến thức về giới tính và hành vi ứng xử của mỗi người liên quan đến giới tính là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành tính cách của con người đó .
A. MỞ ĐẦU
Vì vậy việc giáo dục giới tính cho HS trong trường phổ thông trung học cơ sở là một trong những nội dung cần thiết ,góp phần để đạt được mục tiêu nêu trên
A. MỞ ĐẦU
2. Để giúp học sinh có nhận thức đúng về giới tính, giúp các em tự khẳng định mình, có ý thức tự tu dưỡng và rèn luyện bản thân, giáo viên phải cung cấp các kiến thức về giới tính có trong SGK cho các em,đồng thời phải sẳn sàng giải đáp thắc mắc của các em.
Ngoài ra giáo viên có thể cung cấp thêm kiến thức về giới tính mà giáo viên có được từ những nguồn tài liệu: sách, báo, cập nhật những thông tin và các hình ảnh trên mạng internet, ti vi …
Do đó việc lồng ghép giới tính trong quá trình dạy môn sinh học cho học sinh ở trường THCS một mặt sẽ cung cấp kiến thức giới tính cho các em mặt khác sẽ làm cho các em hứng thú hơn
khi học bộ môn sinh học, đồng thời để giáo dục các em tu dưỡng và rèn luyện tốt.
Vì những lý do nêu trên, nên tổ KHTN trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm nghiên cứu và áp dụng đề tài.
"LỒNG GHÉP GIỚI TÍNH
VÀO MÔN SINH HỌC
TRƯỜNG THCS"
B. PHẦN NỘI DUNG
Để thực hiện việc lồng ghép giáo dục giới tính vào môn Sinh học trường THCS , người giáo viên ngoài nắm vững giới tính đã có trong SGK, đồng thời phải có hiểu biết rộng rãi về vấn đề này trên cơ sở đọc sách, báo, xem ti vi, xem thông tin trên mạng internet và từ kinh nghiệm cuộc sống của bản thân mình
B. PHẦN NỘI DUNG
Mặc dù người giáo viên có kiến thức sâu rộng về giới tính , nhưng việc giảng dạy kiến thức về giới tính cho HS ở độ tuổi THCS là việc làm không đơn giản,bởi vì đây là vấn đề rất nhạy cảm .
Vì vậy để đạt được hiệu quả cao, ngoài vấn đề kiến thức, người giáo viên phải có năng lực sư phạm tốt và phải hiểu biết tâm sinh lí lứa tuổi HS ở trường THCS. Tùy từng chương, từng bài, từng thời điểm mà giáo viên có thể lồng ghép các kiến thức về giới tính trong quá trình giảng dạy .
Sau đây là một số nội dung kiến thức về giáo dục giới tính, mà tổ TN chúng tôi thấy rất cần thiết phải lồng ghép trong quá trình giảng dạy môn sinh học ở trường THCS
Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rõ được quá trình sinh sản và sinh trưởng của cơ thể, học sinh nắm được ý nghĩa của nguyên phân, đối với sự sinh sản và sinh trưởng của cơ thể.
1. Giáo viên phải đưa một số hình ảnh minh hoạ để cho HS thấy sự biến đổi hình
thái NST trong chu kỳ sinh trưởng và phân chia tế bào : mức độ đóng duỗi xoắn của NST qua các kỳ và những diễn biến cơ bản của NST trong quá trình nguyên phân, từ một tế bào mẹ 2 tế bào con có bộ NST giống như bộ NST của tế bào mẹ (2n NST).
Đó là phương thức sinh sản của tế bào cơ thể đa bào. Do đó cơ thể đa bào cứ lớn lên thông qua quá trình nguyên phân. GV phải giảng cho HS hiểu được nguyên phân là phương thức truyền đạt và ổn định bộ NST đặc trưng của loài qua các thế hệ tế bào.
Sự sinh trưởng của các mô và cơ quan trong cơ thể đa bào nhờ chủ yếu vào tăng số lượng tế bào, qua quá trình nguyên phân.
Khi mô hay cơ quan đạt khối lượng tới hạn thì ngừng sinh trưởng, lúc này nguyên phân bị ức chế.
Từ kiến thức này, GV phải giúp cho HS hiểu được sự thay đổi của cơ thể con người ở tuổi dậy thì. Đó là thời kỳ trưởng thành sinh dục bắt đầu có khả năng sinh con .
2. Qua bài giảm phân: GV phải giảng cho học sinh hiểu rõ quá trình giảm phân cũng là hình thức phân chia tế bào,nhưng quá trình này diễn ra vào thời kỳ chín của tế bào sinh dục .
Biểu hiện rõ nhất của thời kì này ở nữ giới là sự xuất hiện kì kinh đầu tiên (trong khoảng 9-14 tuổi) lần đầu ở nam là sự phóng tinh (trong khoảng 12-15 tuổi)
Nguyên nhân của những biểu hiện này là do sự trưởng thành của hoóc môn sinh dục, vì vậy sẽ mang thai nếu có quan hệ tinh dục với người khác giới.
3. Khi giảng bài "Sự hình thành giao tử và sự thụ tinh” GV phải giảng cho học sinh hiểu được sự phát sinh giao tử đực và cái ở loài sinh sản hữu tính là nhờ giảm phân. Khi thụ tinh bộ NST lưỡng bội được phục hồi, đã đảm bảo duy trì ổn định bộ NST đặc trưng của loài qua các thế hệ cơ thể.
GV phải giải thích cho HS hiểu rõ, khi sự tạo noãn kết thúc sẽ tạo ra một trứng, sự tạo tinh sẽ tạo ra 4 tinh tử, và tinh tử sẽ phát triển thành tinh trùng. Đó là qua trình tạo trứng đối với cơ thể nữ giới và quá trình tạo tinh trùng đối với cơ thể nam giới. Vì vậy nữ sinh có thể bị mang thai nếu có quan hệ tình dục với người khác
giới.Khi giảng bài này, GV phải khéo léo nhắc nhở HS, để các em có ý thức tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, phải biết làm chủ bản thân, không để xảy ra hậu quả đáng tiếc
hiểu rõ hàng tháng đối với các em nữ đã có hiện tượng rụng trứng, do đó sẽ có hiện tượng kinh nguyệt lần đầu và có khả năng mang thai. GV phải giải thích cho HS hiểu rằng , mang thai ở độ tuổi trẻ sẽ dễ bị tử vong, sẩy thai, đẻ non, băng huyết…. vì tử cung chưa phát triển đầy đủ.
4. Khi giảng dạy bài “Hiện tượng kinh nguyệt ở các em nữ”: Giáo viên giải thích cho học sinh
5. Khi giảng bài : ”Cơ quan sinh dục nam và nữ” GV phải giải thích cho HS hiểu rõ cấu tạo cơ quan sinh dục nam, nữ.Với các em nữ bao gồm:
buồng trứng, voì dẫn trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo, âm vật...
Đối với các em nam bao gồm: 2 tinh hoàn, ống dẫn tinh,dương vật...
Giáo viên giáo dục học sinh biết cách giữ gìn vệ sinh cơ quan sinh dục cho các em nhận thức rõ cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục giúp các em xác định giới tính của mình, các em định hướng con đường đúng đắn, từ đó các em có ý thức bảo vệ bản thân.
Giáo viên giúp các em định hướng con đường đúng đắn, để các em có ý thức tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, phải biết rèn luyện bản thân không bị vấp ngã và không để xảy ra hậu quả đáng tiếc.
Ở lứa tuổi dậy thì, các em có những diễn biến nội tâm phức tạp, thích tò mò muốn tìm hiểu những điều mới lạ, dễ đua đòi theo bạn bè. Vì vậy giáo viên phải giáo dục HS để các em có khả năng nhận thức đúng đắn về tâm sinh lí giới tính, có ý thức về bản thân, tự tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho XH
Chuyên đề “Lồng ghép giáo dục giới tính vào môn sinh học ở trường THCS” mà chúng tôi đã trình bày trên đây là kết quả của sự đúc kết kinh nghiệm giảng dạy những vấn đề về giới tính khi dạy môn sinh học trong những năm qua của tổ TN trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm.
C. KẾT LUẬN
Thực tế đã chứng minh rằng, khi áp dụng việc lồng ghép trong quá trình dạy học thì hiệu quả của bài giảng đạt được rất cao. Hiệu quả đó là: HS có được kiến thức khoa học về giới tính, có hứng thú hơn khi học môn sinh học, có ý thức tốt hơn về bản thân mình và có hành vi ứng xử tốt hơn đối với gia đình, bạn bè và xã hội.
Để ứng dụng CNTT trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, qua sử dụng phương tiện công nghệ thông tin để giáo dục giới tính cho học sinh trong nhà trường buộc giáo viên phải chuẩn bị thật tốt bài dạy ở tất cả các yêu cầu. Không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu để nâng cao chất lượng giảng dạy. Đó cũng là một tác dụng hiệu quả nữa đối với quá trình dạy học của giáo viên.
Các cấp chỉ đạo cần tổ chức các hội thảo về vấn đề này để giúp giáo viên tháo gỡ những vướng mắc. Cần phổ biến những tài liệu có liên quan
TẬP THỂ GV TỔ KHTN TRƯỜNG THCS NGUYỄN BỈNH KHIÊM
LỒNG GHÉP
GIÁO DỤC GIỚI TÍNH VÀO MÔN SINH HỌC Ở TRƯỜNG THCS
Mục tiêu của nhà trường phổ thông là giáo dục và đào tạo học sinh trở thành những công dân có ích ,có đầy đủ năng lực và phẩm chất nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong tương lai.
A. MỞ ĐẦU
Kiến thức về giới tính và hành vi ứng xử của mỗi người liên quan đến giới tính là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành tính cách của con người đó .
A. MỞ ĐẦU
Vì vậy việc giáo dục giới tính cho HS trong trường phổ thông trung học cơ sở là một trong những nội dung cần thiết ,góp phần để đạt được mục tiêu nêu trên
A. MỞ ĐẦU
2. Để giúp học sinh có nhận thức đúng về giới tính, giúp các em tự khẳng định mình, có ý thức tự tu dưỡng và rèn luyện bản thân, giáo viên phải cung cấp các kiến thức về giới tính có trong SGK cho các em,đồng thời phải sẳn sàng giải đáp thắc mắc của các em.
Ngoài ra giáo viên có thể cung cấp thêm kiến thức về giới tính mà giáo viên có được từ những nguồn tài liệu: sách, báo, cập nhật những thông tin và các hình ảnh trên mạng internet, ti vi …
Do đó việc lồng ghép giới tính trong quá trình dạy môn sinh học cho học sinh ở trường THCS một mặt sẽ cung cấp kiến thức giới tính cho các em mặt khác sẽ làm cho các em hứng thú hơn
khi học bộ môn sinh học, đồng thời để giáo dục các em tu dưỡng và rèn luyện tốt.
Vì những lý do nêu trên, nên tổ KHTN trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm nghiên cứu và áp dụng đề tài.
"LỒNG GHÉP GIỚI TÍNH
VÀO MÔN SINH HỌC
TRƯỜNG THCS"
B. PHẦN NỘI DUNG
Để thực hiện việc lồng ghép giáo dục giới tính vào môn Sinh học trường THCS , người giáo viên ngoài nắm vững giới tính đã có trong SGK, đồng thời phải có hiểu biết rộng rãi về vấn đề này trên cơ sở đọc sách, báo, xem ti vi, xem thông tin trên mạng internet và từ kinh nghiệm cuộc sống của bản thân mình
B. PHẦN NỘI DUNG
Mặc dù người giáo viên có kiến thức sâu rộng về giới tính , nhưng việc giảng dạy kiến thức về giới tính cho HS ở độ tuổi THCS là việc làm không đơn giản,bởi vì đây là vấn đề rất nhạy cảm .
Vì vậy để đạt được hiệu quả cao, ngoài vấn đề kiến thức, người giáo viên phải có năng lực sư phạm tốt và phải hiểu biết tâm sinh lí lứa tuổi HS ở trường THCS. Tùy từng chương, từng bài, từng thời điểm mà giáo viên có thể lồng ghép các kiến thức về giới tính trong quá trình giảng dạy .
Sau đây là một số nội dung kiến thức về giáo dục giới tính, mà tổ TN chúng tôi thấy rất cần thiết phải lồng ghép trong quá trình giảng dạy môn sinh học ở trường THCS
Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rõ được quá trình sinh sản và sinh trưởng của cơ thể, học sinh nắm được ý nghĩa của nguyên phân, đối với sự sinh sản và sinh trưởng của cơ thể.
1. Giáo viên phải đưa một số hình ảnh minh hoạ để cho HS thấy sự biến đổi hình
thái NST trong chu kỳ sinh trưởng và phân chia tế bào : mức độ đóng duỗi xoắn của NST qua các kỳ và những diễn biến cơ bản của NST trong quá trình nguyên phân, từ một tế bào mẹ 2 tế bào con có bộ NST giống như bộ NST của tế bào mẹ (2n NST).
Đó là phương thức sinh sản của tế bào cơ thể đa bào. Do đó cơ thể đa bào cứ lớn lên thông qua quá trình nguyên phân. GV phải giảng cho HS hiểu được nguyên phân là phương thức truyền đạt và ổn định bộ NST đặc trưng của loài qua các thế hệ tế bào.
Sự sinh trưởng của các mô và cơ quan trong cơ thể đa bào nhờ chủ yếu vào tăng số lượng tế bào, qua quá trình nguyên phân.
Khi mô hay cơ quan đạt khối lượng tới hạn thì ngừng sinh trưởng, lúc này nguyên phân bị ức chế.
Từ kiến thức này, GV phải giúp cho HS hiểu được sự thay đổi của cơ thể con người ở tuổi dậy thì. Đó là thời kỳ trưởng thành sinh dục bắt đầu có khả năng sinh con .
2. Qua bài giảm phân: GV phải giảng cho học sinh hiểu rõ quá trình giảm phân cũng là hình thức phân chia tế bào,nhưng quá trình này diễn ra vào thời kỳ chín của tế bào sinh dục .
Biểu hiện rõ nhất của thời kì này ở nữ giới là sự xuất hiện kì kinh đầu tiên (trong khoảng 9-14 tuổi) lần đầu ở nam là sự phóng tinh (trong khoảng 12-15 tuổi)
Nguyên nhân của những biểu hiện này là do sự trưởng thành của hoóc môn sinh dục, vì vậy sẽ mang thai nếu có quan hệ tinh dục với người khác giới.
3. Khi giảng bài "Sự hình thành giao tử và sự thụ tinh” GV phải giảng cho học sinh hiểu được sự phát sinh giao tử đực và cái ở loài sinh sản hữu tính là nhờ giảm phân. Khi thụ tinh bộ NST lưỡng bội được phục hồi, đã đảm bảo duy trì ổn định bộ NST đặc trưng của loài qua các thế hệ cơ thể.
GV phải giải thích cho HS hiểu rõ, khi sự tạo noãn kết thúc sẽ tạo ra một trứng, sự tạo tinh sẽ tạo ra 4 tinh tử, và tinh tử sẽ phát triển thành tinh trùng. Đó là qua trình tạo trứng đối với cơ thể nữ giới và quá trình tạo tinh trùng đối với cơ thể nam giới. Vì vậy nữ sinh có thể bị mang thai nếu có quan hệ tình dục với người khác
giới.Khi giảng bài này, GV phải khéo léo nhắc nhở HS, để các em có ý thức tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, phải biết làm chủ bản thân, không để xảy ra hậu quả đáng tiếc
hiểu rõ hàng tháng đối với các em nữ đã có hiện tượng rụng trứng, do đó sẽ có hiện tượng kinh nguyệt lần đầu và có khả năng mang thai. GV phải giải thích cho HS hiểu rằng , mang thai ở độ tuổi trẻ sẽ dễ bị tử vong, sẩy thai, đẻ non, băng huyết…. vì tử cung chưa phát triển đầy đủ.
4. Khi giảng dạy bài “Hiện tượng kinh nguyệt ở các em nữ”: Giáo viên giải thích cho học sinh
5. Khi giảng bài : ”Cơ quan sinh dục nam và nữ” GV phải giải thích cho HS hiểu rõ cấu tạo cơ quan sinh dục nam, nữ.Với các em nữ bao gồm:
buồng trứng, voì dẫn trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo, âm vật...
Đối với các em nam bao gồm: 2 tinh hoàn, ống dẫn tinh,dương vật...
Giáo viên giáo dục học sinh biết cách giữ gìn vệ sinh cơ quan sinh dục cho các em nhận thức rõ cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục giúp các em xác định giới tính của mình, các em định hướng con đường đúng đắn, từ đó các em có ý thức bảo vệ bản thân.
Giáo viên giúp các em định hướng con đường đúng đắn, để các em có ý thức tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, phải biết rèn luyện bản thân không bị vấp ngã và không để xảy ra hậu quả đáng tiếc.
Ở lứa tuổi dậy thì, các em có những diễn biến nội tâm phức tạp, thích tò mò muốn tìm hiểu những điều mới lạ, dễ đua đòi theo bạn bè. Vì vậy giáo viên phải giáo dục HS để các em có khả năng nhận thức đúng đắn về tâm sinh lí giới tính, có ý thức về bản thân, tự tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho XH
Chuyên đề “Lồng ghép giáo dục giới tính vào môn sinh học ở trường THCS” mà chúng tôi đã trình bày trên đây là kết quả của sự đúc kết kinh nghiệm giảng dạy những vấn đề về giới tính khi dạy môn sinh học trong những năm qua của tổ TN trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm.
C. KẾT LUẬN
Thực tế đã chứng minh rằng, khi áp dụng việc lồng ghép trong quá trình dạy học thì hiệu quả của bài giảng đạt được rất cao. Hiệu quả đó là: HS có được kiến thức khoa học về giới tính, có hứng thú hơn khi học môn sinh học, có ý thức tốt hơn về bản thân mình và có hành vi ứng xử tốt hơn đối với gia đình, bạn bè và xã hội.
Để ứng dụng CNTT trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, qua sử dụng phương tiện công nghệ thông tin để giáo dục giới tính cho học sinh trong nhà trường buộc giáo viên phải chuẩn bị thật tốt bài dạy ở tất cả các yêu cầu. Không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu để nâng cao chất lượng giảng dạy. Đó cũng là một tác dụng hiệu quả nữa đối với quá trình dạy học của giáo viên.
Các cấp chỉ đạo cần tổ chức các hội thảo về vấn đề này để giúp giáo viên tháo gỡ những vướng mắc. Cần phổ biến những tài liệu có liên quan
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hồ Văn Thiện
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)