Câu đố

Chia sẻ bởi Nguyễn Quang Tiên | Ngày 12/10/2018 | 38

Chia sẻ tài liệu: Câu đố thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Câu đố ở Đồng bằng sông Cửu Long

Câu đố là một dạng thức sinh hoạt văn hóa dân gian của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long. Nó phản ánh tâm tư tình cảm, thể hiện nhu cầu mong muốn thỏa mãn tri thức, nhu cầu được vui chơi, giải trí của tầng lớp nhân dân lao động. Câu đố là một dạng sáng tác phản ánh các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan giữa vật đố (lời giải) với vật được miêu tả (câu đố). Sự liên tưởng trong câu đố thường bất ngờ, dí dỏm và mang nhiều màu sắc khác nhau. Cư dân ở Đồng bằng sông Cửu Long xưa trong quá trình lao động mệt nhọc, họ ngoài việc đờn ca, hò hát, sáng tác ca dao, còn đặt ra câu đố. Những câu đố này đã làm cho tri thức của con người không ngừng được nâng lên, đồng thời cũng giúp họ giải khuây trong quá trình lao động mệt nhọc. Đặc biệt, trong kho tàng câu đố ở Đồng bằng sông Cửu Long, câu đố được thoát thai từ ca dao khá nhiều. Người ta hay đặt câu đố trên cái nền của ca dao, hoặc là đặt câu đố theo hình thức của ca dao làm cho câu đố vần hơn, dễ thuộc hơn, hay hơn, giúp người ta dễ nhớ hơn. Điều này cũng chứng tỏ khả năng quan sát tinh tế, trí tưởng tượng độc đáo và cách vận dụng linh hoạt các thể thơ dân gian trong hệ thống câu đố của người dân lao động xưa: Gươm vàng hai lưỡi gươm vàng Thác thì chịu thác, chứ buông nàng không buông. (Con Sam) Năm thằng cầm hai cái sào Đuổi đàn trâu trắng chui vào trong hang. (Ăn cơm) Cây gì có quả không hoa Vì chưng không lá chê già, chê non. (Cây cân) Thân ta không mẹ không cha Vốn không họ hàng, ở nhà người dưng. (Cây chùm gửi) Người dân lao động xưa ở Đồng bằng sông Cửu Long rất mê truyện Tàu. Vì vậy, từ tư tưởng, điều nhân nghĩa đến tên các nhân vật trong tiểu thuyết Tàu đều hết sức quen thuộc đối với người dân nơi đây. Chẳng những trong ca dao, hò, vè, mà ngay cả câu đố ta cũng thường bắt gặp các câu chữ Hán, những cái tên thường mang ý nghĩa có tính cách nhân vật tiểu thuyết, như Khổng Minh thì tượng trưng cho chính nghĩa, Tào Tháo là phi nghĩa... Trên thì Gia Cát cầu phong Dưới thời lập trận hỏa công đánh Tào Hai bên tả hữu xông vào Đánh cho tào chạy ngã nhào xuống sông. (Lò rèn) Vô thủ, vô vĩ, vô nhĩ, vô tâm Chốn ở sơn lâm hay ăn thịt sống. (Cái thớt) Gió lao xao trông ngọn thảo lay Ban ngày dạo chốn tiền đài Tối lại nằm kề vách ngọc Bởi thương chúa nên thân tôi cồi cộc Gẫm mình tàn còn một nắm xương (Cây chổi) Phần lớn các câu đố ở Đồng bằng sông Cửu Long xưa thường xoay quanh các sự vật, hiện tượng có liên quan đến đời sống hằng ngày của con người. Đó là những công việc hàng ngày, những đồ dùng quen thuộc, những hàng cây xung quanh mình, những bờ rau, bụi cỏ... Đầu rồng đuôi phụng loe hoe Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con. (Buồng cau) Thân em ở bụi ở bờ Chồng con không có mà nhờ tiếng kêu. (Rau má) Ông già ngồi cạnh bờ sông Có trăm con mắt mà không thấy đường. (Trái khóm) Một cột mà chín mười kèo Vải xanh vải đỏ mà treo bốn bề. (Cây dù) Tròn tròn như lá tía tô Rớt xuống ao hồ đầu ướt đuôi khô. (Cái vá) Chặt đầu nối nghiệp tổ tiên Ép mỡ lấy dầu, xương thịt bỏ đi. (Cây mía) Hiên ngang mà đứng giữa đồng Cầm cờ tập trận, rộn ràng tiến quân. (Người chăn vịt) Người nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long xưa sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, mà cuộc sống nông nghiệp thì phụ thuộc rất nhiều vào các hiện tượng tự nhiên. Vì vậy, các hiện tượng tự nhiên đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong tâm thức của người dân nơi đây, phản ánh khá rõ trong các câu đố dân gian: Cây cao ngàn trượng, lá rụng tứ tung Nấu thời được, nướng thời không. (Trời mưa) Thoạt đẻ thì mọc hai sừng Đến khi lưng chừng thì ễnh bụng ra.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Quang Tiên
Dung lượng: 36,00KB| Lượt tài: 1
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)