Bai giang cho lop boi duong ly luan chinh tri cho dangvien moi 2012 Bai 9
Chia sẻ bởi Lê Thanh Hiền |
Ngày 12/10/2018 |
39
Chia sẻ tài liệu: Bai giang cho lop boi duong ly luan chinh tri cho dangvien moi 2012 Bai 9 thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
Bài 9
KHÔNG NGỪNG PHẤN ĐẤU VÀ RÈN LUYỆN ĐỂ XỨNG ĐÁNG VỚI DANH
HIỆU NGƯỜI ĐẢNG VIÊN ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Vị trí, vai trò của người đảng viên
a) Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam:
Điều lệ Đảng Cộng sản việt Nam được thông qua tại Đại hội XI của Đảng khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc".
Trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, nên từng đảng viên của Đảng phải là chiến sĩ cách mạng tiên phongcủa giai cấp công nhân, phấn đấu vì lợi ích của giai cấp. Toàn bộ sức mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ từng người đảng viên.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đảng viên là người tiên tiến nhất trong nhân dân lao động và của dân tộc.
Thứ ba, Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, nên mỗi đảng viên đều đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc lên trên hết, trước hết. Nhờ đó mà Đảng được cả dân tộc gọi là Đảng ta.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo nhân dân, nên mỗi đảng viên là người tiên phong, gương mẫu trước quần chúng nhân dân.
b) Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam bằng việc định ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn; công tác cán bộ và vai trò gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
- Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Đường lối của Đảng là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng. Mỗi đảng viên của Đảng đều có trách nhiệm trong việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng qua tham gia xây dựng các nghị quyết của Đảng từ cơ sở trở lên.
- Sau khi có đường lối đúng đắn, việc bảo đảm cho đường lối được thực hiện thắng lợi trong thực tế có vai trò quan trọng. Đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm tấm gương tốtcho quần chúng noi theo.
c) Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng:
- Đảng viên là người lãnh đạo, bởi vì đảng viên có giác ngộ lý tưởng của Đảng, đem tư tưởng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tuyên truyền cho quần chúng trong cơ quan, đơn vị, trong cộng đồng, cho gia đình mình và bằng hành động của mình tập hợp lôi cuốn họ thực hiện.
Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân, bởi vì mục tiêu lý tưởng của Đảng ta là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, vì vậy đảng viên của Đảng suốt đời phấn đấu để phục vụ cho lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân..
Là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân, đảng viên không tự hạ thấp trình độ nhận thức, phẩm chất chính trị của mình, không theo đuôi quần chúng, mà luôn luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của Đảng để lãnh đạo, giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ của quần chúng, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng.
d) Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng:
- Trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch, đặc biệt chống chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay, việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố có tính quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định tính đúng dắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
- Đảng viên, người chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân có trách nhiệm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, đấu tranh có hiệu quả với các biểu hiện của tư tưởng cơ hội, hữu khuynh, xét lại hoặc giáo điều, bảo thủ, làm cho Đảng ta luôn luôn vững vàng, kiên định, có sức chiến đấu cao.
2. Nhiệm vụ của người đảng viên
Điều 2 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI xác định nhiệm vụ của người đảng viên gồm:
Một là, Tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
Hai là, Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
Ba là, Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
II. KHÔNG NGỪNG PHẤN ĐẤU VÀ RÈN LUYỆN ĐỂ XỨNG ĐÁNG VỚI DANH HIỆU ĐẢNG VIÊN
1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng
- Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của người đảng viên, là tiêu chí phân định đảng viên và quần chúng; là cơ sở để đánh giá chất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên. Mọi đảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu.
Điểm 1 điều 1 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định.Tiêu chuẩn đảng viên như sau:
“Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và đân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Những tiêu chuẩn đảng viên thể hiện qua các điểm sau:
Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
+ Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Có mục tiêu, lý tưởng là tiêu chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.
+ Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,, thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thái độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.
Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
+ Nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những nguời cộng sản còn phải có kiến thức, có trình độ văn hoá cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; không bằng lòng với những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự tụt hậu...
+ Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tình hình đó đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng những kiến thức về mọi mặt để có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viện phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân...
+ Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước sâu sắc, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân, kiện định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thái độ tích cực ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng; thống nhất giữa lời nói và việc làm.
+ Đạo đức, lối sống mới yêu cầu phải dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu hiện cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi mới để tìm kiếm lợi ích riêng cho bản thân mình.
+ Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn và làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của của Đảng trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.
- Đoàn kết trong Đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Nền tảng của sự đoàn kết trong Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và các nguyên tắc tổ chức Đảng.
- Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất ý chí, thống nhất hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất của Đảng.
- Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn; đồng thời chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm túc chấp hành, không được phát ngôn tuỳ tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng của mình bên ngoài các hội nghị Đảng.
Năm là, gắn bó mật thiết với quần chúng.
- Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Phát huy dân chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
- Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ là một tiêu chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện năng lực hoạt động chính trị - thực tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên.
Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng. Nhiệm vụ của người đảng viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của Đảng.
- Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam mang nội dung mới. Đó là kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và bê ngoài, làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong sáng trong hoàn cảnh mới.
2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: Cá nhân một con người mang danh hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ có phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.
Về mặt cá nhân:
Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của con người Việt Nam, đó là:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Về tư cách thành viên của tổ chức đảng:
+ Yêu cầu của sự phấn đấu là giữ vững, tự khẳng định tư cách người cộng sản của mình và không ngừng vượt lên chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “tất cả các đảngviên, cán bộ và chi bộ cần phải thường xuyên ôn lại, tự liên hệ và giữ đúng những tiêu chuẩn của người đảng viên...”, coi đó là cách tốt nhất để xứng đáng với danh hiệu người cộng sản.
+ Phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, trong từng tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch.
Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân:
+ Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã xuất hiện từ lâu trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội X đã thảo luận, biểu quyết và thông qua chủ trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương”.
+ Cơ sở để Đại hội thông qua chủ trương trên là do nước ta đang trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển kinh tế, giải phóng mạnh mẽ các tiềm năng phát triển trong xã hội, trong đó có trên 3 triệu đảng viên. Đó là thực hiện lời dạy của V.I. Lênin, phải qua “những bước trung gian”, “bắc những nhịp cầu nhỏ” từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, kinh tế tư nhân không đối lập với kinh tế nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân cũng là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Tuy nhiên, nền kinh tế tư nhân, do chịu tác động của các quy luật thị trường có thể có những tác động tiêu cực đến tiêu chuẩn của người đảng viên. Để hạn chế những tác động tiêu cực đó. Nghị quyết Đại hội X yêu cầu đảng viên phải khác với những công dân khác là ngoài việc chấp hành đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, còn phải chấp hành Điều lệ Đảng và những quy định trong Đảng, để làm kinh tế tư nhân nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn và giữ đúng tư cách đảng viên.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thông qua những quy định đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhiệm vụ của mỗi đảng viên khi làm kinh tế tư nhân là phải thực hiện tốt những quy định này.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình Đại hội XI của Đảng yêu cầu: " Tổng kết, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để tiếp tục thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân. Thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ danh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩm vào Đảng".
III. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG VIÊN
1. Quan điểm chỉ đạo công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi mới
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương ĐảngTrung ương khóa VI, “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” xác định bốn quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác vận động nhân dân trong thời kỳ mới.
Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ xung và phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu năm bài học chủ yếu trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong đó có bài học:ócự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân”.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ công dân.
- Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, Đảng đã vạch ra được đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đó là đấu tranh cho quyền dân sinh, dân chủ và lợi ích cao nhất là độc lập tự do của đất nước. Nhờ đó đã tập hợp được các tầng lớp nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng.
- Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải quyết quan hệ lợi ích theo nguyên tắc: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
Kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích địa phương và lợi ích cả nước. Coi trọng lợi ích cá nhân nhưng không tuyệt đối hóa, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt, làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng.
Nhờ đó qua 25 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định “Kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội...”là một động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Quán triệt quan điểm này mới tạo ra được phong trào hành động cách mạng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
Trong giai đoạn mới của cách mạng phải đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, vì cơ cấu xã hội - giai cấp, xã hội - dân cư, xã hội - nghề nghiệp...có sự phát triển mới cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nhu cầu lợi ích của xã hội, của tổ chức và mỗi cá nhân hết sức đa dạng, phong phú. Mặt khác, trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác nhau về hình thức tập hợp. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân là hợp với quy luật phát triển của xã hội trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế ở nước ta.
- Cùng với hình thức tập hợp nhân dân, Đảng cũng nhấn mạnh đến phương thức và khẩu hiệu vận động nhân dân sao cho phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân, coi trọng việc vận động bằng các điển hình tiên tiến.
- Theo tinh thần đại hội XI của Đảng, để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội đòi hỏi phải phát triển nhiều hình thức trong sinh hoạt xã hội.
Bốn là, công tác vận động nhân dân là trách nhiệm của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
- Đảng phải lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác dân vận nhằm thường xuyên củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, coi trọng công tác kiểm tra việc thực hiện các chủ trương về dân vận, nhất là đối với hệ thống chính quyền.
- Các cấp chính quyền phải chăm lo công tác quần chúng, vì Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cần khắc phục tình trạng nhiều cấp chính quyền còn có những biểu hiện coi nhẹ công tác dân vận và coi nhẹ việc xây dựng các tổ chức quần chúng.
- Các tổ chức đoàn thể, các hội nghề nghiệp...cần phải coi trọng công tác vận động đoàn viên, hội viên, phải tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.
- Mọi cán bộ, đảng viên, mọi công chức, viên chức nhà nước đều phải làm tốt công tác dân vận theo chức trách của mình.
2. Nhiệm vụ chủ yếu công tác vận động nhân dân của người đảng viên trong giai đoạn mới
Để làm tốt công tác dân vận, mỗi đảng viên căn cứ điều kiện cụ thể ở địa phương, vị trí công tác làm tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân
Hai là, tuyên truyền, vận động nhân dân, đưa mọi người tham gia vào các tổ chức thích hợp để hoạt động.
Ba là, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình và sử dụng quần chúng tiên tiến.
Bốn là, nêu gương cho quần chúng noi theo.
Đảng lãnh đạo quần chúng không chỉ bằng đường lối, chính sách mà còn thông qua vai trò gương mẫu tiên phong trong nhận thức, trong hành động và trong đạo đức, lối sống, tác phong của từng đảng viên. Nhiệm vụ người đảng viên là phải gương mẫu ở nơi làm việc; tuyên truyền vận động gia đình mình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đảng viên đều phải gương mẫu lôi cuốn mọi người thực hiện nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú. Đảng viên tham gia các đoàn thể chính trị - xã hội phải gương mẫu để các hội viên khác noi theo. Đảng viên phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Có như vậy, mới củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Phân tích vị trí, vai trò của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?
2. Nội dung phấn đấu rèn luyện của người đảng viên trong giai đoạn hiện nay?
3. Quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ chủ yếu của người đảng viên trong công tác vận động nhân dân ở cơ sở?
–––––––––––––––––––––––––––
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Thanh Hiền
Dung lượng: 1,97MB|
Lượt tài: 1
Loại file: ppt
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)