Bài 7. Bánh trôi nước
Chia sẻ bởi Nguyễn Phương Thanh |
Ngày 28/04/2019 |
41
Chia sẻ tài liệu: Bài 7. Bánh trôi nước thuộc Ngữ văn 7
Nội dung tài liệu:
Xin kính chào thầy cô và các bạn!
Sau đây là bài tìm hiểu của tớ về nhà thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương (chữ Hán:胡春香, 1772 - 1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần sự khảo cứu lâu, nhưng hậu thế có thi sĩ Xuân Diệu đã mạo muội tôn Hồ Xuân Hương làm Bà chúa thơ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là "thanh thanh tục tục"
Cuộc đời của bà:
Ông Hồ Phi Diễn tương truyền là thân sinh của bà, đậu tú tài năm 24 tuổi. Nhà nghèo ông ra Bắc dạy học kiếm sống, về sau lấy một cô gái họ Hà làm vợ lẽ. Hồ Xuân Hương là kết quả của cuộc hôn nhân này. Hồ Phi Diễn có thời sống ở Thăng Long.
Lúc nhỏ bà sống ở Thăng Long, phường Khán Xuân (gần Hồ Tây ) Hà Nội bây giờ. Khi trưởng thành bà có làm một ngôi nhà ở gần đó lấy tên là Cổ Nguyệt Đường.
Căn cứ vào một số tài liệu, truyền thuyết, qua thơ văn thì thấy Bà thuở nhỏ thông minh, có đi học tuy không nhiều lắm. Đời sống bình thường không dư dật, không thiếu thốn. Giao du rộng rãi, là người phóng túng, đi nhiều và thân thiết với nhiều bạn trai trong số đó có cả Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều.
Gia thế
Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772, theo học giả John Balaban thì bà cất tiếng khóc chào đời ở phường Khán Xuân (nay thuộc địa phận Bách Thảo viên Hà Nội). Cứ theo Giai nhân dị mặc, Hồ Xuân Hương là ái nữ của Sinh đồ Hồ Phi Diễn (胡丕演, 1703 - 1786), người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Còn theo học giả Trần Thanh Mại, thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh[ (胡士名, 1706 - 1783) cũng người Quỳnh Đôi, Hồ Sĩ Danh là em cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Ðống (胡士棟, 1739 - 1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ tên Hà Thị (何氏, - 1814) người trấn Hải Dương. Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa Phi mai xuân sắc nhất kinh thành (丕梅春色一京成) của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai (胡丕梅) là nguyên danh, Xuân Hương (春香) là biểu tự và Cổ Nguyệt Đường (古月堂) là bút hiệu.
Trong thế cuộc xoay vần đầy nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương vẫn được hưởng những năm tháng ấu thơ êm đềm ở một dinh thự lớn tên Cổ Nguyệt đường[10]ven hồ Tây, bấy giờ là chốn phồn hoa đô hội bậc nhất xứ Đàng Ngoài. Sau khi mãn tang cha, mẹ bà tái hôn với người khác. Dù ít phải ràng buộc trong gia giáo nghiêm khắc như mọi nữ lưu cùng thời, Hồ Xuân Hương vẫn hội tụ được tư chất thông minh và hiếu học
Tác phẩm
Một ấn bản thơ Hồ Xuân Hương bằng Pháp văn của Viễn Đông Bác Cổ năm 1968.
Văn bản được nhận diện cổ nhất có chép thơ Hồ Xuân Hương là Quốc văn tùng ký do Hải Châu Tử Nguyễn Văn San (1808 - 1883) soạn năm Minh Mệnh thứ 14 (1933), nhưng chỉ vài bài. Hầu hết di tác của nữ sĩ họ Hồ được gom trong cuốn Xuân Hương thi tập, Phúc Văn Đường tàng bản ấn hành tại Hà Nội năm 1930. Trong sách có khoảng 60 bài nhưng lẫn cả thơ của nhiều tác giả khác, nay chưa truy nguyên được tất cả. Tuy nhiên, văn bản đáng quý nhất là Lưu hương ký với bài tựa của Phan Huy Huân, được học giả Trần Thanh Mại phát kiến và công bố trên thi đàn vào năm 1964. Trước đó không lâu, năm 1962, đã có học giả Trần Văn Giáp đăng trên báo Văn Nghệ (Hà Nội) 5 thi phẩm chữ Hán được cho là của Hồ Xuân Hương. Nhưng mãi đến năm 1984, học giả Hoàng Xuân Hãn mới dịch nghĩa và đăng trên tập san Khoa Học Xã Hội (Paris), lại đặt nhan đề lần lượt là Độ hoa phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thủy vân hương[2].
Thơ Hồ Xuân Hương luôn được trình bày theo phong cách thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp được nhận định là điêu luyện nhưng phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán.Ý tưởng trong thơ cũng rất táo bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời[24]. Cho nên, Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở nên suy đồi.Tựu trung, các di tác phần nào cho phép hậu thế thấy thực trạng tang thương ở thời đại bà sống và cả quá trình mục rữa của nhiều lề lối cũ.
Tình duyên
Tổng Cóc vốn là biệt hiệu mà người quen biết đặt cho Chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hòa. Nguyên quán của ông ở làng Gáp, xã Tứ (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Ông là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành, bản thân cũng một lần đi thi Hương nhưng không đỗ đạt. Sau Tổng Cóc đăng trình, lên đến chức cai cơ nên thường được gọi là Đội. Kết quả của hôn sự này được cho là một đứa trẻ vắn số.
Còn theo Phạm gia tộc phả và Triệu tông phả, ông phủ Vĩnh Tường tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn (khi thăng chức Đồng tri phủ Phân phủ Vĩnh Tường thì cải thành Viết Lập), tên cúng cơm là Đại, tự Thành Phủ. Nguyên quán của ông ở hương Trà Lũ, xã Xuân Trung, phủ Xuân Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Các tư liệu này cũng cho biết, Hồ Xuân Hương sinh cho ông một người con tên Phạm Viết Thiệu.
Ngoài ra, có nhiều giai thoại truyền khẩu về lối sống phong lưu của nữ sĩ họ Hồ, như việc bà là một hoa nương thanh sắc vẹn toàn, và những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Nguyễn Hầu, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Phan Huy Huân, Mai Sơn Phủ ,Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên...
“Tập thơ "Lưu hương ký" mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai. Đọc kỹ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và "Lưu hương ký", chủ yếu là về phong cách biểu hiện. Trong "Lưu hương ký" có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong "Lưu hương ký" nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trong "Lưu hương ký" có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc như ở "Xuân Hương thi tập". Vì lý do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn "Lưu hương ký" được coi là một tập thơ để tham khảo.”
Bà là người đa tình, có tài và biết mình có tài, bà mong mỏi có một người chồng xứng đáng. Nhưng cuộc đời, tình duyên của bà đầy ngang trái, đầy đau khổ. Một lần làm vợ lẽ tên trọc phú: Tổng Cóc, một lần lấy tên quan phủ Vĩnh Tường, nhưng lại làm lẽ. Cả hai bước đi đều ngắn ngủi, và chỉ đem lại cho Bà những vị chua xót, thất vọng.
Hồ Xuân Hương đi du lãm nhiều nơi, đay là một điều hiếm có với phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhiều danh lam thắng cảnh bà đã đặt chân đến ở các tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên…Đó là chưa kể đến Vĩnh Tường (Vĩnh Phú) nơi chồng bà làm quan, và Nghệ An , quê hương của bà.
Bà sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Số thơ Nôm hiện còn trên 40 bài nhưng có giá trị. Ngôn ngữ thơ bà sắc cạnh, giàu âm thanh, màu sắc, được sử dụng một cách sống động, tài tình.
Trong thơ cổ điển của nước ta nếu xét khía cạnh tính cách đân tộc thì có lẽ thơ Hồ Xuân Hương “Thì treo giải nhất chị nhường cho ai ? “Thơ của bà đã thống nhất đến cao độ hai tính cách dân tộc và đại chúng . Xuân Hương học thông chữ Hán nhưng trong thơ mình, Bà chỉ dùng thuần Việt trong lúc các nhà thơ khác cùng thời như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan … dung hòa giữa chữ Hán với tiếng Việt thì nữ sĩ Hồ Xuân Hương chỉ dùng tiếng Việt trước sau như một. Bà không dùng chữ Hán có nghĩa là Bà nhất khoát thoát ly khỏi sự kìm cặp của lễ nghi phong kiến. Ngôn ngữ phong phú và tài dùng chữ của Xuân Hương là câu trả lời cho những ai không tin vào dân tộc mà cho rằng : Tiếng nói của mẹ đẻ là lạc hậu và nghèo nàn.
Ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương không chỉ giàu có về từ mà còn giàu có về màu sắc dân tộc . Bởi vì Hồ Xuân Hương ngoài việc dùng thuần tiếng Việt , Bà đã không quên lợi dụng những tiểu thuật lạ lùng của tiếng Việt như : nói ví , nói bóng gió , nói lái , chơi chữ … làm cho thơ bà kỳ diệu thêm độc đáo thêm .
Có thể nói rằng Hồ Xuân Hương có một vốn từ ngữ rất Việt Nam và cũng không quá đáng khi nói rằng : Ngôn ngữ ấy rất Hồ Xuân Hương . nó gồm một số từ ngữ xưa bây giờ không còn dùng nữa hoặc đã khác nghĩa đi, ví dụ như từ : bom, tom…
Dựa vào đặc điểm từ láy tiếng Việt (có giá trị biểu đạt cao) Hồ Xuân Hương đã khai thác triệt để nó và biến nó thành đặc điểm của riêng mình làm cho lời thơ có dáng dấp tinh nghịch và độc đáo. Thế giới vô tri vô giác trong thơ Bà luôn cựa quậy, động đậy, có sức sống tràn trề, mãnh liệt quá chừng.
Thơ của Hồ Xuân Hương tươi trẻ giản dị và hồn nhiên, trong sáng, tạo ấn tượng đặc biệt độc đáo. Những từ ngữ : Con ốc, quả mít, cái quạt, miếng trầu, cây đu…là những ngôn ngữ thông thường nhưng do biết cách chọn lọc với hoàn cảnh nên lời thơ có được cái trong sáng của tiếng nói nhân dân, có hương vị tươi ngon của mớ rau vừa mơí hái rất dân dã, rất Việt Nam .
Ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương là ngôn ngữ đại chúng. Thơ của bà không chỉ dùng từ quần chúng mà còn dùng đủ các cách tu từ quần chúng, một câu hai ý hoặc ba ý, hiểu theo ý nào cũng được: Thanh cũng được, thô cũng được .
Thơ của Bà thường vận dụng một số cách nói quen thuộc trong ca dao, thành ngữ, có cả khẩu ngữ, ví dụ như: sáng banh, trưa trật..
” Không có nhưng mà có mới ngoan”
“ Không chồng mà chửa ấy mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường ”
Hồ Xuân Hương là nhà thơ dòng Việt – “Bà chúa thơ nôm” Là chúa cả nội dung lẫn hình thức . Với tài năng dùng chữ của mình Bà đã sáng tạo nên những dòng thơ, bài thơ rất dân dã, rất Việt Nam.
Kết luận
Có thể không quá đáng khi nói rằng: Thơ Hồ Xuân Hương đã làm được nhiều điều mà chúng ta tưởng chừng không thể làm được, cái không thể dưói bàn tay điêu luyện của Hồ Xuân Hương đã trở thành có thể. Trước và sau bà không có ai làm được điều đó.
Một điều khi nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, ngôn ngữ thơ của nữ sĩ chúng ta đều nhận thấy nội dung và hình thức gắn vào nhau quá chặt chẽ. Tất cả các phương tiện nghệ thuật đều kết hợp mật thiết với nhau để thể hiện nội dung tư tưởng, tình cảm. Cả nội dung và hình thức thơ Hồ Xuân Hương đều bắt nguồn sâu sắc từ trong đời sống nhân dân, đó là điều đã làm cho thơ bà trở nên bất tử. Bà là người góp phần làm phong phú vốn tiếng Việt và giá trị của nó. Chính vì vậy khi tìm hiểu phong cách thơ Hồ Xuân Hương chúng ta phải thấy rõ điều này. Hồ Xuân Hương xứng đáng được mệnh danh “Bà Chúa thơ Nôm”.
Tác phẩm của bà được lưu truyền tới sau này.
Sau đây là bài tìm hiểu của tớ về nhà thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương (chữ Hán:胡春香, 1772 - 1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hiện tại vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần sự khảo cứu lâu, nhưng hậu thế có thi sĩ Xuân Diệu đã mạo muội tôn Hồ Xuân Hương làm Bà chúa thơ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình, có nhiều người cho rằng đặc sắc của thơ bà là "thanh thanh tục tục"
Cuộc đời của bà:
Ông Hồ Phi Diễn tương truyền là thân sinh của bà, đậu tú tài năm 24 tuổi. Nhà nghèo ông ra Bắc dạy học kiếm sống, về sau lấy một cô gái họ Hà làm vợ lẽ. Hồ Xuân Hương là kết quả của cuộc hôn nhân này. Hồ Phi Diễn có thời sống ở Thăng Long.
Lúc nhỏ bà sống ở Thăng Long, phường Khán Xuân (gần Hồ Tây ) Hà Nội bây giờ. Khi trưởng thành bà có làm một ngôi nhà ở gần đó lấy tên là Cổ Nguyệt Đường.
Căn cứ vào một số tài liệu, truyền thuyết, qua thơ văn thì thấy Bà thuở nhỏ thông minh, có đi học tuy không nhiều lắm. Đời sống bình thường không dư dật, không thiếu thốn. Giao du rộng rãi, là người phóng túng, đi nhiều và thân thiết với nhiều bạn trai trong số đó có cả Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều.
Gia thế
Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772, theo học giả John Balaban thì bà cất tiếng khóc chào đời ở phường Khán Xuân (nay thuộc địa phận Bách Thảo viên Hà Nội). Cứ theo Giai nhân dị mặc, Hồ Xuân Hương là ái nữ của Sinh đồ Hồ Phi Diễn (胡丕演, 1703 - 1786), người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Còn theo học giả Trần Thanh Mại, thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh[ (胡士名, 1706 - 1783) cũng người Quỳnh Đôi, Hồ Sĩ Danh là em cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Ðống (胡士棟, 1739 - 1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ tên Hà Thị (何氏, - 1814) người trấn Hải Dương. Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa Phi mai xuân sắc nhất kinh thành (丕梅春色一京成) của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai (胡丕梅) là nguyên danh, Xuân Hương (春香) là biểu tự và Cổ Nguyệt Đường (古月堂) là bút hiệu.
Trong thế cuộc xoay vần đầy nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII, Hồ Xuân Hương vẫn được hưởng những năm tháng ấu thơ êm đềm ở một dinh thự lớn tên Cổ Nguyệt đường[10]ven hồ Tây, bấy giờ là chốn phồn hoa đô hội bậc nhất xứ Đàng Ngoài. Sau khi mãn tang cha, mẹ bà tái hôn với người khác. Dù ít phải ràng buộc trong gia giáo nghiêm khắc như mọi nữ lưu cùng thời, Hồ Xuân Hương vẫn hội tụ được tư chất thông minh và hiếu học
Tác phẩm
Một ấn bản thơ Hồ Xuân Hương bằng Pháp văn của Viễn Đông Bác Cổ năm 1968.
Văn bản được nhận diện cổ nhất có chép thơ Hồ Xuân Hương là Quốc văn tùng ký do Hải Châu Tử Nguyễn Văn San (1808 - 1883) soạn năm Minh Mệnh thứ 14 (1933), nhưng chỉ vài bài. Hầu hết di tác của nữ sĩ họ Hồ được gom trong cuốn Xuân Hương thi tập, Phúc Văn Đường tàng bản ấn hành tại Hà Nội năm 1930. Trong sách có khoảng 60 bài nhưng lẫn cả thơ của nhiều tác giả khác, nay chưa truy nguyên được tất cả. Tuy nhiên, văn bản đáng quý nhất là Lưu hương ký với bài tựa của Phan Huy Huân, được học giả Trần Thanh Mại phát kiến và công bố trên thi đàn vào năm 1964. Trước đó không lâu, năm 1962, đã có học giả Trần Văn Giáp đăng trên báo Văn Nghệ (Hà Nội) 5 thi phẩm chữ Hán được cho là của Hồ Xuân Hương. Nhưng mãi đến năm 1984, học giả Hoàng Xuân Hãn mới dịch nghĩa và đăng trên tập san Khoa Học Xã Hội (Paris), lại đặt nhan đề lần lượt là Độ hoa phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thủy vân hương[2].
Thơ Hồ Xuân Hương luôn được trình bày theo phong cách thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp được nhận định là điêu luyện nhưng phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán.Ý tưởng trong thơ cũng rất táo bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời[24]. Cho nên, Hồ Xuân Hương được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở nên suy đồi.Tựu trung, các di tác phần nào cho phép hậu thế thấy thực trạng tang thương ở thời đại bà sống và cả quá trình mục rữa của nhiều lề lối cũ.
Tình duyên
Tổng Cóc vốn là biệt hiệu mà người quen biết đặt cho Chánh tổng Nguyễn Bình Kình, tự Công Hòa. Nguyên quán của ông ở làng Gáp, xã Tứ (nay thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Ông là cháu của quan nghè Nguyễn Quang Thành, bản thân cũng một lần đi thi Hương nhưng không đỗ đạt. Sau Tổng Cóc đăng trình, lên đến chức cai cơ nên thường được gọi là Đội. Kết quả của hôn sự này được cho là một đứa trẻ vắn số.
Còn theo Phạm gia tộc phả và Triệu tông phả, ông phủ Vĩnh Tường tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn (khi thăng chức Đồng tri phủ Phân phủ Vĩnh Tường thì cải thành Viết Lập), tên cúng cơm là Đại, tự Thành Phủ. Nguyên quán của ông ở hương Trà Lũ, xã Xuân Trung, phủ Xuân Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Các tư liệu này cũng cho biết, Hồ Xuân Hương sinh cho ông một người con tên Phạm Viết Thiệu.
Ngoài ra, có nhiều giai thoại truyền khẩu về lối sống phong lưu của nữ sĩ họ Hồ, như việc bà là một hoa nương thanh sắc vẹn toàn, và những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Nguyễn Hầu, Trần Ngọc Quán, Trần Quang Tĩnh, Phan Huy Huân, Mai Sơn Phủ ,Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên...
“Tập thơ "Lưu hương ký" mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai. Đọc kỹ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và "Lưu hương ký", chủ yếu là về phong cách biểu hiện. Trong "Lưu hương ký" có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong "Lưu hương ký" nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trong "Lưu hương ký" có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc như ở "Xuân Hương thi tập". Vì lý do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn "Lưu hương ký" được coi là một tập thơ để tham khảo.”
Bà là người đa tình, có tài và biết mình có tài, bà mong mỏi có một người chồng xứng đáng. Nhưng cuộc đời, tình duyên của bà đầy ngang trái, đầy đau khổ. Một lần làm vợ lẽ tên trọc phú: Tổng Cóc, một lần lấy tên quan phủ Vĩnh Tường, nhưng lại làm lẽ. Cả hai bước đi đều ngắn ngủi, và chỉ đem lại cho Bà những vị chua xót, thất vọng.
Hồ Xuân Hương đi du lãm nhiều nơi, đay là một điều hiếm có với phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhiều danh lam thắng cảnh bà đã đặt chân đến ở các tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên…Đó là chưa kể đến Vĩnh Tường (Vĩnh Phú) nơi chồng bà làm quan, và Nghệ An , quê hương của bà.
Bà sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Số thơ Nôm hiện còn trên 40 bài nhưng có giá trị. Ngôn ngữ thơ bà sắc cạnh, giàu âm thanh, màu sắc, được sử dụng một cách sống động, tài tình.
Trong thơ cổ điển của nước ta nếu xét khía cạnh tính cách đân tộc thì có lẽ thơ Hồ Xuân Hương “Thì treo giải nhất chị nhường cho ai ? “Thơ của bà đã thống nhất đến cao độ hai tính cách dân tộc và đại chúng . Xuân Hương học thông chữ Hán nhưng trong thơ mình, Bà chỉ dùng thuần Việt trong lúc các nhà thơ khác cùng thời như Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan … dung hòa giữa chữ Hán với tiếng Việt thì nữ sĩ Hồ Xuân Hương chỉ dùng tiếng Việt trước sau như một. Bà không dùng chữ Hán có nghĩa là Bà nhất khoát thoát ly khỏi sự kìm cặp của lễ nghi phong kiến. Ngôn ngữ phong phú và tài dùng chữ của Xuân Hương là câu trả lời cho những ai không tin vào dân tộc mà cho rằng : Tiếng nói của mẹ đẻ là lạc hậu và nghèo nàn.
Ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương không chỉ giàu có về từ mà còn giàu có về màu sắc dân tộc . Bởi vì Hồ Xuân Hương ngoài việc dùng thuần tiếng Việt , Bà đã không quên lợi dụng những tiểu thuật lạ lùng của tiếng Việt như : nói ví , nói bóng gió , nói lái , chơi chữ … làm cho thơ bà kỳ diệu thêm độc đáo thêm .
Có thể nói rằng Hồ Xuân Hương có một vốn từ ngữ rất Việt Nam và cũng không quá đáng khi nói rằng : Ngôn ngữ ấy rất Hồ Xuân Hương . nó gồm một số từ ngữ xưa bây giờ không còn dùng nữa hoặc đã khác nghĩa đi, ví dụ như từ : bom, tom…
Dựa vào đặc điểm từ láy tiếng Việt (có giá trị biểu đạt cao) Hồ Xuân Hương đã khai thác triệt để nó và biến nó thành đặc điểm của riêng mình làm cho lời thơ có dáng dấp tinh nghịch và độc đáo. Thế giới vô tri vô giác trong thơ Bà luôn cựa quậy, động đậy, có sức sống tràn trề, mãnh liệt quá chừng.
Thơ của Hồ Xuân Hương tươi trẻ giản dị và hồn nhiên, trong sáng, tạo ấn tượng đặc biệt độc đáo. Những từ ngữ : Con ốc, quả mít, cái quạt, miếng trầu, cây đu…là những ngôn ngữ thông thường nhưng do biết cách chọn lọc với hoàn cảnh nên lời thơ có được cái trong sáng của tiếng nói nhân dân, có hương vị tươi ngon của mớ rau vừa mơí hái rất dân dã, rất Việt Nam .
Ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương là ngôn ngữ đại chúng. Thơ của bà không chỉ dùng từ quần chúng mà còn dùng đủ các cách tu từ quần chúng, một câu hai ý hoặc ba ý, hiểu theo ý nào cũng được: Thanh cũng được, thô cũng được .
Thơ của Bà thường vận dụng một số cách nói quen thuộc trong ca dao, thành ngữ, có cả khẩu ngữ, ví dụ như: sáng banh, trưa trật..
” Không có nhưng mà có mới ngoan”
“ Không chồng mà chửa ấy mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường ”
Hồ Xuân Hương là nhà thơ dòng Việt – “Bà chúa thơ nôm” Là chúa cả nội dung lẫn hình thức . Với tài năng dùng chữ của mình Bà đã sáng tạo nên những dòng thơ, bài thơ rất dân dã, rất Việt Nam.
Kết luận
Có thể không quá đáng khi nói rằng: Thơ Hồ Xuân Hương đã làm được nhiều điều mà chúng ta tưởng chừng không thể làm được, cái không thể dưói bàn tay điêu luyện của Hồ Xuân Hương đã trở thành có thể. Trước và sau bà không có ai làm được điều đó.
Một điều khi nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, ngôn ngữ thơ của nữ sĩ chúng ta đều nhận thấy nội dung và hình thức gắn vào nhau quá chặt chẽ. Tất cả các phương tiện nghệ thuật đều kết hợp mật thiết với nhau để thể hiện nội dung tư tưởng, tình cảm. Cả nội dung và hình thức thơ Hồ Xuân Hương đều bắt nguồn sâu sắc từ trong đời sống nhân dân, đó là điều đã làm cho thơ bà trở nên bất tử. Bà là người góp phần làm phong phú vốn tiếng Việt và giá trị của nó. Chính vì vậy khi tìm hiểu phong cách thơ Hồ Xuân Hương chúng ta phải thấy rõ điều này. Hồ Xuân Hương xứng đáng được mệnh danh “Bà Chúa thơ Nôm”.
Tác phẩm của bà được lưu truyền tới sau này.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Phương Thanh
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)