Bài 6 Những câu hát than thân

Chia sẻ bởi Võ Hoàng Đạo | Ngày 11/10/2018 | 24

Chia sẻ tài liệu: Bài 6 Những câu hát than thân thuộc Ngữ văn 7

Nội dung tài liệu:

NHỮNG CÂU HÁT THAN THÂN

Các điểm cơ bản:
_Những câu hát than thân thể hiện một mặt cảm xúc khác trong tình cảm của người Việt Nam.
_ Dùng thực vật (trái bần), động vật thưừong thấy (con cò, tằm, kiến,…) làm hình ảnh so sánh, ẩn dụ để diễn ta tâm trạng, thân phận của con người thưừong gặp phải nỗi đắng cay, đau khổ như nông dân, phụ nữ, lính thú,…
_ Cả ba bài đều được làm bằng thơ lục bát.


I. Con người chẳng ai giống ai, số phận của mỗi người mỗi khác. Có người sinh ra và lớn lên là được hưởng cuộc đời hạnh phúc. Có người vừa mới sinh ra là chịu cảnh khổ đau. Có người vì hoàn cảnh mà phải sống cực khổ, chịu đắng cay vì quan niệm khắc khe của xã hội. Dù họ có lạc quan cách mấy thì cũng có lúc than thở về thân phận mình. Những điều thường thấy trong đời sống thực ấy lại được phản ánh vào điệu lời ca.
II. Con cò trong ca dao thường là hình ảnh tượng trưng cho người mẹ, cũng có thể là biểu tượng của người nông dân, bởi nông dân cũng như con cò thường kiếm ăn trên đồng ruộng, cũng thức khuya dậy sớm, cần mẫn, chịu thương chịu khó với đồng cạn đồng sâu. Cũng như mọi người, gặp lúc khó khăn trắc trở, họ cũng than trách .

Nước non lận cận một mình,
Thân cò lên xuống thác ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con ?

Hai câu đầu, ‘cò’ than thở về thân phận của mình. Khi cho rằng ‘cò’ tương trưng cho người nông dân thì ‘nước non’ chính là đồng ruộng mà cũng có thể chốn rừng sấu núi cao “lên thác xuống ghềnh’ chính là những khó khăn trắc trở. Từ lúc khó khăn trắc trở cho tới nay chỉ có một mình ‘cò’ dấu thân chịu đựng để cố vượt qua. Khó khăn trắc trở là do ‘bể kia đầy, ai kia cạn’ khác với mức độ bình thường. Mà bể đầy, ao cạn do ai gây ra? Hai câu cuối của bài ca dao nhằm trả lời câu hỏi ấy. Nhưng phím chỉ đại từ ‘Ai’ không chỉ rõ người nào. Cái hay của nó ở chỗ nội dung ám chỉ của bài ca dao thay đổi tùy theo khung cảnh xuất hiện. Nó có thể là lời than trách, tố cáo chế độ cai trị khi xuất hiện giữa cộng đồng làng xã, cũng là lời than trách người chồng (hay người vợ) bội bạc khiến bản thân đã cực mà con cái (cò con) càng nheo nhóc, ốm o gầy mòn.
Cũng là câu hác than thân nhưng bài ca dao dưới đây lại than cho nhiều thân phận khác nhau qua hình ảnh của con tằm, lũ kiến,…

Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.

Mỗi cặp câu trong tắm câu lục bát thể hiện lòng thương về thân phận long đong, vất vả của một loài động vật ‘con tằm, con kiến, con hạc, con cuốc’ đều là hình ảnh ẩn dụ. ‘Con tằm’ nhằm ám chỉ ai? Phải chăng đó là hình ảnh của người thợ dệt quanh năm bám lây khung cửi nhưng chẳng kiếm ăn được bao nhiêu? Hay đó là hình ảnh của người nghệ sĩ, nhà văn như ngày nay người ta ví von? Và tại sao những người lao động chăm chỉ lại than thở về cuộc sống của mình? Có lẽ khách hàng chẳng mấy ai mua, mà cũng có thể là do sưu cao thuế nặng nên đời sống của họ trở nên èo uột, nghèo nàn. Lũ kiến cũng thế. Nếu đó là hình ảnh của người nông dân, kẻ cày thuê cấy mướn thân phận nhỏ nhoi làm việc với mong ước ‘kiến tha lâu đầy tổ’ thì sao lại ‘phải đi tìm mồi’ ? có phải vì mưa bão, hạn hán sinh ra mất mùa khiến họ phải đi kiếm việc làm để nuôi sống bản thân? Cũng có thể địa phương đất hẹp người đông nên họ phải nhọc thân tìm đến những nơi khác để kiếm cái ăn cái mặc .Cặp thứ ba nói về chia hạc. Hạc là tên gọi một loài chim lớn, cẳng cao, cổ và mỏ dài. Trong câu văn (câu lục) là hình ảnh ẩn dụ, nhưng để ám chỉ hạng người nào. Nó không thể là hình ảnh tượng trưng cho người thợ dệt ay anh nông dân dù họ có sức sống trăm tuổi. Có lẽ hạc dùng để chỉ những người có học thời xưa vì trong đó có hai tiếng ‘đường mấy’ ám chỉ đường công
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Võ Hoàng Đạo
Dung lượng: 37,50KB| Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)