Bài 5. Đặc điểm dân cư, xã hội châu Á
Chia sẻ bởi Võ Mỵ Nương |
Ngày 24/10/2018 |
41
Chia sẻ tài liệu: Bài 5. Đặc điểm dân cư, xã hội châu Á thuộc Địa lí 8
Nội dung tài liệu:
Kính chào quý thầy cô và các bạn
đã đến với bài học của chúng em !!!
Địa lí 8
Bài 5 : Đặc điểm dân cư
xã hội châu Á
III. Nơi ra đời của các tôn giáo lớn
1.Sự ra đời của Ki-tô giáo
-Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Chúa Giêsu Crit (Jesus Christ), con của Chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh tên là Maria và được sinh ra ở Bétlêem vùng Palextin (lúc bấy giờ nằm trong lãnh thổ của đế quốc La Mã) vào khoảng năm thứ 5 hoặc 4 TCN
-Giêsu, theo các sách Phúc Âm, là một người Do Thái tôn trọng luật pháp Moses (kinh Torah), là nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng, là người bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái.
-Theo các sách Phúc Âm, khi Giêsu sinh ra, các mục đồng được thiên sứ báo tin đã nhà thờ lạy và mấy nhà thông thái (còn gọi là mấy nhà chiêm tinh hay mấy đạo sĩ, hoặc ba vua) từ phương Đông xa xôi, được dẫn dắt bởi một ngôi sao lạ, đã tìm đến để tôn thờ Giêsu.
-Giêsu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilee. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giêsu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giêsu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ Jerusalem, đang tranh luận với các học giả Do Thái giáo.
-Theo Kinh Thánh, Giêsu đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Giêsu sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Giêsu có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giêsu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo
-Giêsu đã làm nhiều phép lạ, xua đuổi tà ma và khiến một người sống lại khi đã chết có tên là Lazaro. Giới lãnh đạo Do Thái giáo bao gồm các nhóm quyền lực đối nghịch nhau như nhóm Sađốc (Sadducee) và nhóm Pharisêu (Pharisee) thường bất đồng với Giêsu. Ông vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như tinh thần đạo đức giả của người Pharisêu. Nhiều người xem Giêsu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giêsu như một thế lực mới đang đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận Giêsu là "Đấng Cứu Tinh" đến để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, ông rất được nhân dân kính trọng và yêu mến.
-Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền.
-Tòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu.
-Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là sự Phục sinh của Chúa Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh.
-Maria Madalena và Maria, mẹ của Giacobê, và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đóthuật rằng khi Maria Madalena đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi người đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đă dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người đàn bà quay lại, thấy Đức Chúa Jêsus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là Đức Chúa Giêsu. Giêsu đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về trời. Về phần các môn đồ, thì họ ra đi giảng đạo khắp mọi nơi, Chúa cùng đi với các môn đồ, và lấy các phép lạ cặp theo lời giảng mà làm cho vững đạo. Và đức Chúa Giêsu luôn ở cùng các môn đồ của Ngài cho đến ngày tận thế
-Maria được mô tả là một trinh nữ, các tín đồ Kitô hữu tin rằng bà mang thai và sinh ra Giêsu là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người Hồi giáo tin rằng bà được thụ thai theo lời phán của Thiên Chúa. Việc mang thai này xảy ra khi bà - lúc đó còn là một thiếu nữ khoảng 14 tuổi (theo Cựu ước) - đã đính hôn với Giuse, và ông bà đang trong thời gian chờ hoàn thiện nghi thức kết hôn theo tập tục của người Do Thái. Sau khi biết mình có thai, bà và Giuse cùng chuyển đến vùng Bethlehem, tại đây bà đã hạ sinh Giêsu.
- Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilea khi đã đính hôn với Giuse. Một số học giả bảo thủ không tin rằng, Giuse là con cháu Vua David . Trong thời gian đã hứa hôn (là thời kì đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên sứ Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ý định của Thiên Chúa. Giuse chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra hoài nghi và muốn rời bỏ Maria một cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Giuse được thiên thần mách bảo đừng lo nghĩ mà hãy nhận Maria về làm vợ mình để hợp với lề luật Do Thái.
- Khi họ đang ở Bethlehem, Maria đã sinh ra Giêsu và đặt đứa trẻ trong chiếc máng cỏ cho súc vật ăn vì họ không tìm được nhà trọ nghỉ chân. Sau tám ngày, con trẻ được cắt bì và được đặt tên là Giêsu, đúng như những gì Giuse được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ
-Maria cũng là người đã ôm xác Giêsu sau khi hạ từ thập giá xuống. Các ngày lễ lớn đầu tiên liên quan đến bà Maria là ngày Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh (Lễ Nến) có từ thế kỷ thứ 5, được tính theo ngày Lễ Giáng Sinh.
2.Vùng phân bố
Những năm đầu Công nguyên, từ vùng Tiểu Á các tín đồ của ki-tô giáo đã tỏa đi truyền giáo khắp đế quốc La Mã và trụ lại ở đó, lập nên tòa thánh La Mã,đứng đầu giáo hội là Giáo hoàng . Ở các nước Tây Âu, ki-tô giáo được cải cách thành nhiều loại khác nhau.
Mãi đến năm 313, hoàng đế La Mã Constantine tuyên bố Sắc lệnh Milano - tuyên bố Kitô giáo là quốc giáo, cho phép xây dựng nhiêu nhà thờ, nhiều tu viện… Từ đó Kitô giáo phát triển mạnh mẽ cả về số lượng tín đồ, cả về tư tưởng thần học, triết học, giáo lý. Sau ba cuộc phân ly với nhiều nguyên nhân khác nhau, Kitô giáo chia thành bốn phái chính: Công giáo, Chính thống, Kháng cách (Tin Lành) và Anh giáo. Mặc dù các phái có tổ chức, nghi lễ và một số tín điều không giống nhau, tuy nhiên, về cơ bản các phái đều có kinh điển chung, đó là cuốn Kinh thánh trọn bộ: Cựu ước và Tân ước.
3.Nghi lễ quan trọng
1. Bí tích rửa tội: nhằm xóa tội tổ tông và các tội bản thân. Hình thức là lấy nước lã đổ lên đầu kẻ lãnh bí tích rửa tội và đọc “(tên thánh) tôi rửa tội nhân danh cha, con và thánh thần” còn kẻ lãnh bí tích thề hứa bỏ ma quỷ lánh tội lỗi, tin theo Chúa Kitô giữ lề luật của Người.
2. Bí tích thêm sức : để củng cố đức tin kính Chúa
3. Bí tích thánh thể: ăn bánh thánh, uống rượu nho với ý nghĩa đó là mình và máu của Chúa Giêsu để được tha tội.
4. Bí tích giải tội: dành cho người sám hối tội lỗi.
5. Bí tích truyền chức thánh: chỉ dành cho giám mục và linh mục đã được tuyển chọn để họ có quyền tế lễ chăn dắt dân chúa.
6. Bí tích hôn phối: là bí tích kết hợp hai tín hữu 1 nam, 1 nữ thành vợ chồng trước mặt Chúa.
7. Bí tích xức dầu bệnh nhân: là bí tích nâng đỡ bệnh nhân về phần hồn và phần xác, giúp tín đồ chịu đựng đau khổ, dọn mình trước cái chết.
*Phép Bí tích: Một nghi lễ của Kitô giáo, theo đó ơn Chúa sẽ được đem đến cho các tín đồ.*
*Trong các nghi lễ, phép bí tích là quan trọng nhất, thể hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người với Chúa.
- Có 7 bí tích:
4.Nơi hành lễ
Tổng Kết
-Ki-tô giáo có một phần nguồn gốc từ đạo Do Thái, xuất hiện ở vùng Pa-le-xtin từ đầu Công Nguyên. Theo truyền thuyết, chúa Giêsu, người sang lập ra đạo ki-tô là con của Chúa trời, được đầu thai vào Đức mẹ Maria và sinh ra ở vùng Bet-lê-hem. Chúa Giêsu khuyên mọi người sống nhẫn nhục, chịu đựng, chết sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở thiên đường. Đạo ki-tô có 7 nghi lễ quan trọng như lễ rửa tội-nghi thức gia nhập đạo,lễ giải tội-xưng tội để được xá tội…Kinh thánh gồm Cựu ước và Tân ước.Nhưng năm đầu Công nguyên, từ vùng Tiểu Á các tín đồ của ki-tô giáo đã tỏa đi truyền giáo khắp đế quốc La Mã và trụ lại ở đó lập nên tòa thánh La Mã, đứng đàu giáo hội là Giáo hòang.Ở các nước Tây Âu, ki-tô giáo được cải cách thành nhiều loại khác nhau
Xin cảm ơn qúy thầy cô và các bạn đã theo dõi và lắng nghe !!!!
đã đến với bài học của chúng em !!!
Địa lí 8
Bài 5 : Đặc điểm dân cư
xã hội châu Á
III. Nơi ra đời của các tôn giáo lớn
1.Sự ra đời của Ki-tô giáo
-Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Chúa Giêsu Crit (Jesus Christ), con của Chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh tên là Maria và được sinh ra ở Bétlêem vùng Palextin (lúc bấy giờ nằm trong lãnh thổ của đế quốc La Mã) vào khoảng năm thứ 5 hoặc 4 TCN
-Giêsu, theo các sách Phúc Âm, là một người Do Thái tôn trọng luật pháp Moses (kinh Torah), là nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng, là người bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái.
-Theo các sách Phúc Âm, khi Giêsu sinh ra, các mục đồng được thiên sứ báo tin đã nhà thờ lạy và mấy nhà thông thái (còn gọi là mấy nhà chiêm tinh hay mấy đạo sĩ, hoặc ba vua) từ phương Đông xa xôi, được dẫn dắt bởi một ngôi sao lạ, đã tìm đến để tôn thờ Giêsu.
-Giêsu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilee. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giêsu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giêsu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ Jerusalem, đang tranh luận với các học giả Do Thái giáo.
-Theo Kinh Thánh, Giêsu đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Giêsu sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Giêsu có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giêsu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo
-Giêsu đã làm nhiều phép lạ, xua đuổi tà ma và khiến một người sống lại khi đã chết có tên là Lazaro. Giới lãnh đạo Do Thái giáo bao gồm các nhóm quyền lực đối nghịch nhau như nhóm Sađốc (Sadducee) và nhóm Pharisêu (Pharisee) thường bất đồng với Giêsu. Ông vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như tinh thần đạo đức giả của người Pharisêu. Nhiều người xem Giêsu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giêsu như một thế lực mới đang đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận Giêsu là "Đấng Cứu Tinh" đến để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, ông rất được nhân dân kính trọng và yêu mến.
-Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền.
-Tòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu.
-Các Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là sự Phục sinh của Chúa Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh.
-Maria Madalena và Maria, mẹ của Giacobê, và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đóthuật rằng khi Maria Madalena đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi người đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đă dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người đàn bà quay lại, thấy Đức Chúa Jêsus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là Đức Chúa Giêsu. Giêsu đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về trời. Về phần các môn đồ, thì họ ra đi giảng đạo khắp mọi nơi, Chúa cùng đi với các môn đồ, và lấy các phép lạ cặp theo lời giảng mà làm cho vững đạo. Và đức Chúa Giêsu luôn ở cùng các môn đồ của Ngài cho đến ngày tận thế
-Maria được mô tả là một trinh nữ, các tín đồ Kitô hữu tin rằng bà mang thai và sinh ra Giêsu là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người Hồi giáo tin rằng bà được thụ thai theo lời phán của Thiên Chúa. Việc mang thai này xảy ra khi bà - lúc đó còn là một thiếu nữ khoảng 14 tuổi (theo Cựu ước) - đã đính hôn với Giuse, và ông bà đang trong thời gian chờ hoàn thiện nghi thức kết hôn theo tập tục của người Do Thái. Sau khi biết mình có thai, bà và Giuse cùng chuyển đến vùng Bethlehem, tại đây bà đã hạ sinh Giêsu.
- Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilea khi đã đính hôn với Giuse. Một số học giả bảo thủ không tin rằng, Giuse là con cháu Vua David . Trong thời gian đã hứa hôn (là thời kì đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên sứ Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ý định của Thiên Chúa. Giuse chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra hoài nghi và muốn rời bỏ Maria một cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Giuse được thiên thần mách bảo đừng lo nghĩ mà hãy nhận Maria về làm vợ mình để hợp với lề luật Do Thái.
- Khi họ đang ở Bethlehem, Maria đã sinh ra Giêsu và đặt đứa trẻ trong chiếc máng cỏ cho súc vật ăn vì họ không tìm được nhà trọ nghỉ chân. Sau tám ngày, con trẻ được cắt bì và được đặt tên là Giêsu, đúng như những gì Giuse được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ
-Maria cũng là người đã ôm xác Giêsu sau khi hạ từ thập giá xuống. Các ngày lễ lớn đầu tiên liên quan đến bà Maria là ngày Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh (Lễ Nến) có từ thế kỷ thứ 5, được tính theo ngày Lễ Giáng Sinh.
2.Vùng phân bố
Những năm đầu Công nguyên, từ vùng Tiểu Á các tín đồ của ki-tô giáo đã tỏa đi truyền giáo khắp đế quốc La Mã và trụ lại ở đó, lập nên tòa thánh La Mã,đứng đầu giáo hội là Giáo hoàng . Ở các nước Tây Âu, ki-tô giáo được cải cách thành nhiều loại khác nhau.
Mãi đến năm 313, hoàng đế La Mã Constantine tuyên bố Sắc lệnh Milano - tuyên bố Kitô giáo là quốc giáo, cho phép xây dựng nhiêu nhà thờ, nhiều tu viện… Từ đó Kitô giáo phát triển mạnh mẽ cả về số lượng tín đồ, cả về tư tưởng thần học, triết học, giáo lý. Sau ba cuộc phân ly với nhiều nguyên nhân khác nhau, Kitô giáo chia thành bốn phái chính: Công giáo, Chính thống, Kháng cách (Tin Lành) và Anh giáo. Mặc dù các phái có tổ chức, nghi lễ và một số tín điều không giống nhau, tuy nhiên, về cơ bản các phái đều có kinh điển chung, đó là cuốn Kinh thánh trọn bộ: Cựu ước và Tân ước.
3.Nghi lễ quan trọng
1. Bí tích rửa tội: nhằm xóa tội tổ tông và các tội bản thân. Hình thức là lấy nước lã đổ lên đầu kẻ lãnh bí tích rửa tội và đọc “(tên thánh) tôi rửa tội nhân danh cha, con và thánh thần” còn kẻ lãnh bí tích thề hứa bỏ ma quỷ lánh tội lỗi, tin theo Chúa Kitô giữ lề luật của Người.
2. Bí tích thêm sức : để củng cố đức tin kính Chúa
3. Bí tích thánh thể: ăn bánh thánh, uống rượu nho với ý nghĩa đó là mình và máu của Chúa Giêsu để được tha tội.
4. Bí tích giải tội: dành cho người sám hối tội lỗi.
5. Bí tích truyền chức thánh: chỉ dành cho giám mục và linh mục đã được tuyển chọn để họ có quyền tế lễ chăn dắt dân chúa.
6. Bí tích hôn phối: là bí tích kết hợp hai tín hữu 1 nam, 1 nữ thành vợ chồng trước mặt Chúa.
7. Bí tích xức dầu bệnh nhân: là bí tích nâng đỡ bệnh nhân về phần hồn và phần xác, giúp tín đồ chịu đựng đau khổ, dọn mình trước cái chết.
*Phép Bí tích: Một nghi lễ của Kitô giáo, theo đó ơn Chúa sẽ được đem đến cho các tín đồ.*
*Trong các nghi lễ, phép bí tích là quan trọng nhất, thể hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người với Chúa.
- Có 7 bí tích:
4.Nơi hành lễ
Tổng Kết
-Ki-tô giáo có một phần nguồn gốc từ đạo Do Thái, xuất hiện ở vùng Pa-le-xtin từ đầu Công Nguyên. Theo truyền thuyết, chúa Giêsu, người sang lập ra đạo ki-tô là con của Chúa trời, được đầu thai vào Đức mẹ Maria và sinh ra ở vùng Bet-lê-hem. Chúa Giêsu khuyên mọi người sống nhẫn nhục, chịu đựng, chết sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở thiên đường. Đạo ki-tô có 7 nghi lễ quan trọng như lễ rửa tội-nghi thức gia nhập đạo,lễ giải tội-xưng tội để được xá tội…Kinh thánh gồm Cựu ước và Tân ước.Nhưng năm đầu Công nguyên, từ vùng Tiểu Á các tín đồ của ki-tô giáo đã tỏa đi truyền giáo khắp đế quốc La Mã và trụ lại ở đó lập nên tòa thánh La Mã, đứng đàu giáo hội là Giáo hòang.Ở các nước Tây Âu, ki-tô giáo được cải cách thành nhiều loại khác nhau
Xin cảm ơn qúy thầy cô và các bạn đã theo dõi và lắng nghe !!!!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Võ Mỵ Nương
Dung lượng: |
Lượt tài: 3
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)