Bài 39. Thực hành: Tìm hiểu thành tựu chọn giống vật nuôi và cây trồng
Chia sẻ bởi Trần Thu Hằng |
Ngày 04/05/2019 |
36
Chia sẻ tài liệu: Bài 39. Thực hành: Tìm hiểu thành tựu chọn giống vật nuôi và cây trồng thuộc Sinh học 9
Nội dung tài liệu:
TƯ LIỆU GIẢNG DẠY
BÀI: THỰC HÀNH
TÌM HIỂU THÀNH TỰU CHỌN GIỐNG VẬT NUÔI VÀ CÂY TRỒNG.
Giống bò Holstein Friesian
Trên thế giới có rất nhiều giống bò sữa, nhưng tốt nhất và phổ biến nhất vẫn là giống bò Holstein Friesian (HF). Bò có nguồn gốc từ Hà Lan nên thường được gọi là bò Hà Lan. Đây là giống bò thích nghi rất tốt ở nhiều vùng khí hậu khác nhau trên thế giới. Mặc dù có nguồn gốc ôn đới nhưng đã được nuôi lai tạo thành những dòngcóthể nuôi được ở các nước nhiệt đới.
Bò HF có màu lang trắng đen, tầm vóc lớn (khối lượng con cái từ 500-600kg). Dáng thanh, hình nêm bầu vú phát triển, sinh sản tốt, tính hiền lành, khả năng sản xuất sữa rất cao.
Tại Pháp, năng suất sữa trung bình khoảng 20kg/con/ngày, có con đạt 9.000kg/chu kỳ sữa. Tại Việt Nam, một số bò HF thuần được nuôi tại Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng) có năng suất đạt 5.000kg/chu kỳ sữa. Tại Việt Nam, có nhiều loại tinh giống bò Holstein Friesian đã và đang được sử dụng, nguồn nhập từ các nước như Canađa, Pháp, Mỹ, Cuba, Nhật, Hàn Quốc... Thông thường thì các nước đều phát triển giống bò Holstein Friesian tại nước mình và đặt tên riêng như Holstein Francaise (Holstein Pháp), Holstein Canada (Holstein Canađa), Holstein American (Holstein Mỹ)... Bò này ở TP.HCM, qua nhiều đời lai, hiện có tỷ lệ lai máu khác nhau từ con bò nền Sind được lai với Bò Hà Lan (HF). Theo như kiểm sát của các cơ quan Nghiên cứu (VKHKTNNMN, ĐHNL) giống bò F2, F3 phát triển tốt, có năng suất khá cao. Việc hướng thuần chăn nuôi cải tạo được môi trường phù hợp (hạ nhiệt độ, hạ ẩm độ...) thì có triển vọng vì năng suất rất cao.
Bò lai Holstein Friesian F1 (50% HF)
Gieo tinh bò Holstein Friesian cho bò cái nền lai Sind để tạo ra bò Holstein Friesian F1. Bò lai Holstein Friesian F1 thường có màu đen tuyền (đôi khi đen xám, đen nâu). Tầm vóc lớn (khối lượng bò cái khoảng 300-400kg), bầu vú phát triển, thích nghi với điều kiện môi trường chăn nuôi của Việt Nam. Năng suất sữa trung bình khoảng 8-9kg/ngày (2.700 kg/chu kỳ). Có một số bò lai HF F1 nuôi tại TP.HCM đạt sản lượng trên 4.000 kg/chu kỳ (năng suất trung bình từ 14-15 kg/con/ngày).
Bò lai Holstein Friesian (75% HF)
Bò cái Holstein Friesian F1 được tiếp tục gieo tinh bò Holstein Friesian F2. Bò lai Holstein Friesian F2 thường có màu lang trắng đen (màu trắng ít hơn). Bò cái có tầm vóc lớn (380-480kg), bầu vú phát triển, thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi tại Việt Nam. Năng suất sữa bình quân khoảng: 10-12 kg/ngày (3.000-3.600kg/chu kỳ), có thể đạt 15kg/ngày (4.500 kg/chu kỳ). Có một số lai HF F2 nuôi tại TP.HCM, Bình Dương đạt sản lượng trên 5.000kg/chu kỳ.
Bò lai Holstein Friesian F3 (87,5% HF)
Bò cái Holstein Friesian F2 được tiếp tục gieo trên bò HF để tạo ra bò HF F3. Bò lai F3 thường có màu lang trắng đen (màu trắng nhiều hơn). Bò cái có vóc lớn (400-500kg, bầu vú phát triển). Bò thích nghi kém hơn nhưng nếu được nuôi dưỡng chăm sóc tốt thì được cho năng suất cao bình quân 13-14kg/ngày, có thể đạt 15kg. Tại Bình Dương và TP.HCM có những bò cao sản đạt 6.000kg/chu kỳ.
Bò Sind
Bò Sind: có lông màu cánh gián, con đực trưởng thành nặng 450-500kg, con cái nặng 320-350kg. Khối lượng sơ sinh 20-21kg, tỷ lệ thịt xẻ 50%, phù hợp với điều kiện chăn nuôi chưa đảm bảo thường xuyên về thức ăn xanh và hạn chế nguồn thức ăn
Con bò nền (bò lai sind dùng để phối giống tinh bò HF tạo ra bò sữa F1 hoặc nuôi để lấy thịt) bắt đầu nhích cao hơn giá bò lai hướng sữa (F1, F2…) .Để chăn nuôi bò thịt đạt hiệu quả cao nên lai tạo giống nhằm tạo ra nguồn giống có ưu thế về năng suất và trọng lượng, lại phù hợp với điều kiện chăn nuôi của từng địa phương. Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các nhà khoa học khuyến cáo cho nông dân sử dụng các giống bò có năng suất cao để phối giống cho đàn bò cái nội sinh sản để từng bước nâng cao tầm vóc, trọng lượng và sức sản xuất của con lai.Giới chăn nuôi nhận định bò lai sind căn cơ hơn , bò sinh sản dễ cho ăn, tỉ lệ mang thai và đẻ cao (90%).
Các nhóm lợn Móng Cái chất lượng cao
Các nhóm lợn Móng Cái chất lượng cao
Là giống lợn Móng Cái cao sản được chọn lọc từ 7 nhóm huyết thống từ năm 1997. Dùng làm nái nền để lai tạo với các giống lợn ngoại tạo con giống hay lợn lai nuôi thịt có chất lượng cao.
Ưu điểm: Dễ nuôi, khả năng kháng bệnh cao, tận dụng được nhiều loại thức ăn. Chi phí thấp. Khả năng sinh sản cao .
Tính trạng đặc biệt của lợn ỉ
Chửa đẻ sớm là một ưu điểm nổi bật của giống lợn ỉ nhờ vào khả năng thành thục sinh dục sớm ở lợn đực và lợn cái.
Ngoài ra, lợn ỉ còn có khả năng tích lũy mỡ sớm,
Một đặc điểm khác của giống lợn này là khả năng chịu ẩm và nóng
Ngoài ra, tính chịu đựng kham khổ cũng như khả năng thích nghi với thức ăn nghèo dinh dưỡng cũng là một đặc điểm quý của giống lợn ỉ.
. Phân bố
Trước những năm 70 lợn ỉ được nuôi hầu như ở khắp các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và Thanh Hoá như Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hải phòng. Vị trí phổ biến của nó dần dần phải nhường cho lợn Móng Cái có sức sinh sản tốt hơn, và từ cuối những năm 70 lợn ỉ thu hẹp dần đến mức độ nguy kịch như ngày nay, chỉ còn sót lại ở một số xã của tỉnh Thanh Hoá.
LỢN BECSAI:
(Berkshire), giống lợn được tạo ra ở miền Nam nước Anh năm 1851. Hướng kiêm dụng nạc - mỡ, dễ thích nghi ở những vùng khí hậu nóng ẩm. Da đen tuyền, ở trán, chân và đuôi có đốm trắng, khả năng sinh sản trung bình 8 - 10 con/nái/ lứa; sớm thành thục, tầm vóc trung bình 140 -160 kg. Lợn nuôi thịt 6 - 8 tháng, đạt 85 - 100 kg, chất lượng thịt cao. Sử dụng lai kinh tế lấy con nuôi thịt. Đã tham gia tạo nhóm giống lợn đen BSI - 81 (lai với lợn nái ỉ địa phương). Hiện nay, do thị hiếu và yêu cầu năng suất cao, LB không được sử dụng rộng.
( Chưa tìm ra hình đạt yêu cầu)
GÀ RÔT - RI:
Giống gà kiêm dụng trứng - thịt do Viện Chăn nuôi Việt Nam lai gà Ri với gà Rôt tạo ra, được công nhận nhóm giống năm 1985. Lông màu nhạt. Con trống một năm tuổi nặng 2,8 - 3 kg, con mái 2,2 - 2,5 kg. Sức đẻ năm đầu 160 - 180 trứng; trứng nặng 48 - 54 g, vỏ màu hồng nhạt. Gà con hai tháng tuổi nặng 600 - 800 g. Thích hợp với phương thức nuôi chăn thả ở nông thôn. Gà mái có thể nuôi nhốt để lấy trứng theo lối công nghiệp. Còn tập tính đòi ấp tự nhiên, nên có thể tự nhân giống ở nông thôn. Sau khi nuôi lấy trứng, có thể giết thịt. Thịt thơm ngon
Gà Hồ
Gà Đông Cảo
Gà gốc từ vùng Đông Tảo (Hưng Yên, Việt Nam). Lông con trống màu đỏ nhạt và vàng đất; con mái màu vàng đất. Mào nụ kém phát triển. Tích và dái tai màu đỏ, kém phát triển. Thể chất khoẻ, xương to, điển hình chân to cao, cơ ngực và cơ đùi phát triển. Khi trưởng thành, con trống nặng 3,8 - 4 kg, con mái 3 - 3,5 kg. Nuôi thâm canh năng suất trứng đạt 60 - 80 trứng/mái/năm. Tính đòi ấp mạnh nhưng ấp và nuôi con không khéo. Gà con chậm mọc lông, chậm lớn
GÀ CHỌI:
Gốc ở vùng Đông Nam A , chủ yếu ở Malaixia, được chọn lọc và tạo ra theo tập quán chơi chọi gà của cư dân vùng này. Lông đen hoặc đen pha nâu đỏ. Mào nụ hoặc mào đơn kém phát triển. Cổ to và dài. Thân dài. Ngực rộng, cơ ngực và cơ đùi phát triển rất khoẻ. Chân dài, xương chân to khoẻ. Cựa to dài. Gà con mọc lông chậm. Gà mái nuôi con vụng. Gà trống tính hung hăng, rất ham chọi nhau. Hàng loạt giống gà công nghiệp lấy thịt đều có máu GC.
Gà Tam Hoàng:
Có mầu lông tương đối đồng nhất. Dòng Jiangcun: mầu vàng nhạt, trọng lượng lúc 10 tuần tuổi đạt 1,4kg/con, số lượng trứng 155 quả/mái/năm, lượng thức ăn tiêu tốn 2,85kg/kg tăng trọng. Dòng 882: mầu vàng sậm, chân cao, da vàng, mào đơn, nuôi 3-5 tháng đạt 1,6 - 2kg, lượng thức ăn tiêu tốn 2,75kg/kg tăng trọng. Tỷ lệ nuôi sống (sau ba tháng có thể đạt 91- 96%, số lượng trứng hằng năm 148 quả/con, trọng lượng 40g/trứng, tỷ lệ nở 80 - 85%, thời gian khai thác: 52 tuần
VỊT CỎ:
Giống vịt đẻ trứng của Việt Nam, được nuôi phổ biến trong nước. Có nhiều màu lông khác nhau, phổ biến là màu xám, màu cánh sẻ, màu loang, vv. Mỏ màu xanh hoặc vàng xanh. Sản lượng trứng 160 - 200 quả/mái/năm, nhóm VC có màu lông cánh sẻ đã chọn lọc, cho sản lượng trứng 220 - 240 quả/mái/năm. Khối lượng cơ thể của VC lúc trưởng thành phổ biến 1,3 - 1,4 kg/con. VC chiếm 65 - 70% số vịt của cả nước và được nuôi ở các vùng sinh thái Việt Nam.
VỊT BẦU
(tk. vịt bầu Bến, bầu Quỳ), giống vịt thịt nguồn gốc ở vùng Chợ Bến, tỉnh Hoà Bình, Việt Nam. Lông con cái màu cánh sẻ; con trống cổ và đầu màu xanh cánh trả, lông đuôi màu xanh đen. Sản lượng trứng 80 - 110 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 68 - 73 g. Con mái lúc trưởng thành nặng 2,1 - 2,3 kg; con trống nặng 2,4 - 2,5 kg
VÒT KAKI CAMBELL
(Chưa tìm thấy tư liệu)
VỊT SIÊU THỊT
(Viết tắt bằng tiếng Anh: CV Super - M), giống vịt chuyên thịt, có nguồn gốc từ Anh. Có 2 dòng M1, M2. VST có lông màu trắng tuyền, thân hình chữ nhật. Đầu to, mắt to và nhanh. Mỏ to, màu vàng tươi hoặc vàng pha xanh. Cổ to, dài vừa phải. Lưng phẳng rộng. Ngực sâu và rộng. Đuôi ngắn. Chân to, ngắn vừa phải, màu vàng hoặc phớt xanh.
Dáng đi chậm chạp. Khó phân biệt con đực và con cái (con đực ở đuôi có lông quăn). Vịt dòng M1 sau khi lai cho vịt nuôi thịt 56 ngày tuổi nặng 2,5 - 3,0 kg. Nuôi làm giống dòng bố M1 có sản lượng trứng 40 tuần đẻ 140 - 181 quả, dòng mẹ 181 - 184 quả. Dòng M2 tăng hơn M1 5%. Nuôi 56 ngày tuổi, con lai nặng 3,0 - 3,5 kg, tiêu tốn 2,6 - 2,8 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng. VST được nuôi nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thích hợp với chăn nuôi theo phương thức công nghiệp. Nuôi bán chăn thả phải bổ sung thức ăn
Cá rô phi đơn tính có nhiều ưu điểm hơn so với cá rô phi thường, như: lớn nhanh, ăn tạp nên dễ nuôi. Khi nuôi loại cá này người nuôi có thể quyết định được cỡ cá thương phẩm, kiểm soát được mật độ thả…Nói chung là hiệu quả kinh tế cao hơn cá rô phi thườngNếu nuôi tốt, sau 7 tháng nuôi cá đạt 300 đến 350g/con. Một năm đạt 500 đến 600g/con, trọng lượng cá tối đa đạt 1-1,2 kg/con
Đẻ nhanh, nhiều(ở ngoài Bắc).
Cá này cũng được các nhà chăn nuôi nuôi rất nhiều và lớn nhanh
Cá chép lai
Cá đang nuôi tại Việt Nam có xuất xứ trực tiếp từ Quảng Đông, Trung Quốc; cá Chim trắng được nhập vào Việt Nam năm 1998. Ban đầu chúng ta chỉ nhập cá con, sau vài năm, VN mình đã cho sinh sản nhân tạo. Vì loài cá này có hình dáng hao hao giống cá chim ở biển (tên khoa học là Colossoma brachypomum, họ cá ... Chép !), nên người Trung Quốc gọi nó là "cá chim trắng nước ngọt".
Cá chim trắng sống ở tầng nước giữa và dưới, hay sống thành đàn, là loài cá ăn tạp, phổ thức ăn rất rộng. Thời kỳ trưởng thành cá ăn được nhiều loài thực vật, các loại hạt ngũ cốc, mùn bã hữu cơ, động vật như giun đất, nhộng tằm, tôm cá nhỏ, ốc; hến, thịt phế phẩm... Đặc đặc điểm mà người câu cần nắm rõ là: cá chim trắng bắt mồi và nuốt mồi rất nhanh, thường ăn ngầm từ giữa tầng nước đến sát đáy; khi dính câu, do thân bè ra hình mái trai nên cá hay sàng ngang, trì níu tạo sự hứng khởi (cảm giác) cho người câu. Nó là loại cá có hàm răng vều ra, cứng khoẻ; nếu cho thoải mái, chúng có thể nhai đứt luôn cá cọng dây thép inox mịn buộc đuôi lưỡi câu./.
Cá chim trắng
BÀI: THỰC HÀNH
TÌM HIỂU THÀNH TỰU CHỌN GIỐNG VẬT NUÔI VÀ CÂY TRỒNG.
Giống bò Holstein Friesian
Trên thế giới có rất nhiều giống bò sữa, nhưng tốt nhất và phổ biến nhất vẫn là giống bò Holstein Friesian (HF). Bò có nguồn gốc từ Hà Lan nên thường được gọi là bò Hà Lan. Đây là giống bò thích nghi rất tốt ở nhiều vùng khí hậu khác nhau trên thế giới. Mặc dù có nguồn gốc ôn đới nhưng đã được nuôi lai tạo thành những dòngcóthể nuôi được ở các nước nhiệt đới.
Bò HF có màu lang trắng đen, tầm vóc lớn (khối lượng con cái từ 500-600kg). Dáng thanh, hình nêm bầu vú phát triển, sinh sản tốt, tính hiền lành, khả năng sản xuất sữa rất cao.
Tại Pháp, năng suất sữa trung bình khoảng 20kg/con/ngày, có con đạt 9.000kg/chu kỳ sữa. Tại Việt Nam, một số bò HF thuần được nuôi tại Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng) có năng suất đạt 5.000kg/chu kỳ sữa. Tại Việt Nam, có nhiều loại tinh giống bò Holstein Friesian đã và đang được sử dụng, nguồn nhập từ các nước như Canađa, Pháp, Mỹ, Cuba, Nhật, Hàn Quốc... Thông thường thì các nước đều phát triển giống bò Holstein Friesian tại nước mình và đặt tên riêng như Holstein Francaise (Holstein Pháp), Holstein Canada (Holstein Canađa), Holstein American (Holstein Mỹ)... Bò này ở TP.HCM, qua nhiều đời lai, hiện có tỷ lệ lai máu khác nhau từ con bò nền Sind được lai với Bò Hà Lan (HF). Theo như kiểm sát của các cơ quan Nghiên cứu (VKHKTNNMN, ĐHNL) giống bò F2, F3 phát triển tốt, có năng suất khá cao. Việc hướng thuần chăn nuôi cải tạo được môi trường phù hợp (hạ nhiệt độ, hạ ẩm độ...) thì có triển vọng vì năng suất rất cao.
Bò lai Holstein Friesian F1 (50% HF)
Gieo tinh bò Holstein Friesian cho bò cái nền lai Sind để tạo ra bò Holstein Friesian F1. Bò lai Holstein Friesian F1 thường có màu đen tuyền (đôi khi đen xám, đen nâu). Tầm vóc lớn (khối lượng bò cái khoảng 300-400kg), bầu vú phát triển, thích nghi với điều kiện môi trường chăn nuôi của Việt Nam. Năng suất sữa trung bình khoảng 8-9kg/ngày (2.700 kg/chu kỳ). Có một số bò lai HF F1 nuôi tại TP.HCM đạt sản lượng trên 4.000 kg/chu kỳ (năng suất trung bình từ 14-15 kg/con/ngày).
Bò lai Holstein Friesian (75% HF)
Bò cái Holstein Friesian F1 được tiếp tục gieo tinh bò Holstein Friesian F2. Bò lai Holstein Friesian F2 thường có màu lang trắng đen (màu trắng ít hơn). Bò cái có tầm vóc lớn (380-480kg), bầu vú phát triển, thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi tại Việt Nam. Năng suất sữa bình quân khoảng: 10-12 kg/ngày (3.000-3.600kg/chu kỳ), có thể đạt 15kg/ngày (4.500 kg/chu kỳ). Có một số lai HF F2 nuôi tại TP.HCM, Bình Dương đạt sản lượng trên 5.000kg/chu kỳ.
Bò lai Holstein Friesian F3 (87,5% HF)
Bò cái Holstein Friesian F2 được tiếp tục gieo trên bò HF để tạo ra bò HF F3. Bò lai F3 thường có màu lang trắng đen (màu trắng nhiều hơn). Bò cái có vóc lớn (400-500kg, bầu vú phát triển). Bò thích nghi kém hơn nhưng nếu được nuôi dưỡng chăm sóc tốt thì được cho năng suất cao bình quân 13-14kg/ngày, có thể đạt 15kg. Tại Bình Dương và TP.HCM có những bò cao sản đạt 6.000kg/chu kỳ.
Bò Sind
Bò Sind: có lông màu cánh gián, con đực trưởng thành nặng 450-500kg, con cái nặng 320-350kg. Khối lượng sơ sinh 20-21kg, tỷ lệ thịt xẻ 50%, phù hợp với điều kiện chăn nuôi chưa đảm bảo thường xuyên về thức ăn xanh và hạn chế nguồn thức ăn
Con bò nền (bò lai sind dùng để phối giống tinh bò HF tạo ra bò sữa F1 hoặc nuôi để lấy thịt) bắt đầu nhích cao hơn giá bò lai hướng sữa (F1, F2…) .Để chăn nuôi bò thịt đạt hiệu quả cao nên lai tạo giống nhằm tạo ra nguồn giống có ưu thế về năng suất và trọng lượng, lại phù hợp với điều kiện chăn nuôi của từng địa phương. Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các nhà khoa học khuyến cáo cho nông dân sử dụng các giống bò có năng suất cao để phối giống cho đàn bò cái nội sinh sản để từng bước nâng cao tầm vóc, trọng lượng và sức sản xuất của con lai.Giới chăn nuôi nhận định bò lai sind căn cơ hơn , bò sinh sản dễ cho ăn, tỉ lệ mang thai và đẻ cao (90%).
Các nhóm lợn Móng Cái chất lượng cao
Các nhóm lợn Móng Cái chất lượng cao
Là giống lợn Móng Cái cao sản được chọn lọc từ 7 nhóm huyết thống từ năm 1997. Dùng làm nái nền để lai tạo với các giống lợn ngoại tạo con giống hay lợn lai nuôi thịt có chất lượng cao.
Ưu điểm: Dễ nuôi, khả năng kháng bệnh cao, tận dụng được nhiều loại thức ăn. Chi phí thấp. Khả năng sinh sản cao .
Tính trạng đặc biệt của lợn ỉ
Chửa đẻ sớm là một ưu điểm nổi bật của giống lợn ỉ nhờ vào khả năng thành thục sinh dục sớm ở lợn đực và lợn cái.
Ngoài ra, lợn ỉ còn có khả năng tích lũy mỡ sớm,
Một đặc điểm khác của giống lợn này là khả năng chịu ẩm và nóng
Ngoài ra, tính chịu đựng kham khổ cũng như khả năng thích nghi với thức ăn nghèo dinh dưỡng cũng là một đặc điểm quý của giống lợn ỉ.
. Phân bố
Trước những năm 70 lợn ỉ được nuôi hầu như ở khắp các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và Thanh Hoá như Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hải phòng. Vị trí phổ biến của nó dần dần phải nhường cho lợn Móng Cái có sức sinh sản tốt hơn, và từ cuối những năm 70 lợn ỉ thu hẹp dần đến mức độ nguy kịch như ngày nay, chỉ còn sót lại ở một số xã của tỉnh Thanh Hoá.
LỢN BECSAI:
(Berkshire), giống lợn được tạo ra ở miền Nam nước Anh năm 1851. Hướng kiêm dụng nạc - mỡ, dễ thích nghi ở những vùng khí hậu nóng ẩm. Da đen tuyền, ở trán, chân và đuôi có đốm trắng, khả năng sinh sản trung bình 8 - 10 con/nái/ lứa; sớm thành thục, tầm vóc trung bình 140 -160 kg. Lợn nuôi thịt 6 - 8 tháng, đạt 85 - 100 kg, chất lượng thịt cao. Sử dụng lai kinh tế lấy con nuôi thịt. Đã tham gia tạo nhóm giống lợn đen BSI - 81 (lai với lợn nái ỉ địa phương). Hiện nay, do thị hiếu và yêu cầu năng suất cao, LB không được sử dụng rộng.
( Chưa tìm ra hình đạt yêu cầu)
GÀ RÔT - RI:
Giống gà kiêm dụng trứng - thịt do Viện Chăn nuôi Việt Nam lai gà Ri với gà Rôt tạo ra, được công nhận nhóm giống năm 1985. Lông màu nhạt. Con trống một năm tuổi nặng 2,8 - 3 kg, con mái 2,2 - 2,5 kg. Sức đẻ năm đầu 160 - 180 trứng; trứng nặng 48 - 54 g, vỏ màu hồng nhạt. Gà con hai tháng tuổi nặng 600 - 800 g. Thích hợp với phương thức nuôi chăn thả ở nông thôn. Gà mái có thể nuôi nhốt để lấy trứng theo lối công nghiệp. Còn tập tính đòi ấp tự nhiên, nên có thể tự nhân giống ở nông thôn. Sau khi nuôi lấy trứng, có thể giết thịt. Thịt thơm ngon
Gà Hồ
Gà Đông Cảo
Gà gốc từ vùng Đông Tảo (Hưng Yên, Việt Nam). Lông con trống màu đỏ nhạt và vàng đất; con mái màu vàng đất. Mào nụ kém phát triển. Tích và dái tai màu đỏ, kém phát triển. Thể chất khoẻ, xương to, điển hình chân to cao, cơ ngực và cơ đùi phát triển. Khi trưởng thành, con trống nặng 3,8 - 4 kg, con mái 3 - 3,5 kg. Nuôi thâm canh năng suất trứng đạt 60 - 80 trứng/mái/năm. Tính đòi ấp mạnh nhưng ấp và nuôi con không khéo. Gà con chậm mọc lông, chậm lớn
GÀ CHỌI:
Gốc ở vùng Đông Nam A , chủ yếu ở Malaixia, được chọn lọc và tạo ra theo tập quán chơi chọi gà của cư dân vùng này. Lông đen hoặc đen pha nâu đỏ. Mào nụ hoặc mào đơn kém phát triển. Cổ to và dài. Thân dài. Ngực rộng, cơ ngực và cơ đùi phát triển rất khoẻ. Chân dài, xương chân to khoẻ. Cựa to dài. Gà con mọc lông chậm. Gà mái nuôi con vụng. Gà trống tính hung hăng, rất ham chọi nhau. Hàng loạt giống gà công nghiệp lấy thịt đều có máu GC.
Gà Tam Hoàng:
Có mầu lông tương đối đồng nhất. Dòng Jiangcun: mầu vàng nhạt, trọng lượng lúc 10 tuần tuổi đạt 1,4kg/con, số lượng trứng 155 quả/mái/năm, lượng thức ăn tiêu tốn 2,85kg/kg tăng trọng. Dòng 882: mầu vàng sậm, chân cao, da vàng, mào đơn, nuôi 3-5 tháng đạt 1,6 - 2kg, lượng thức ăn tiêu tốn 2,75kg/kg tăng trọng. Tỷ lệ nuôi sống (sau ba tháng có thể đạt 91- 96%, số lượng trứng hằng năm 148 quả/con, trọng lượng 40g/trứng, tỷ lệ nở 80 - 85%, thời gian khai thác: 52 tuần
VỊT CỎ:
Giống vịt đẻ trứng của Việt Nam, được nuôi phổ biến trong nước. Có nhiều màu lông khác nhau, phổ biến là màu xám, màu cánh sẻ, màu loang, vv. Mỏ màu xanh hoặc vàng xanh. Sản lượng trứng 160 - 200 quả/mái/năm, nhóm VC có màu lông cánh sẻ đã chọn lọc, cho sản lượng trứng 220 - 240 quả/mái/năm. Khối lượng cơ thể của VC lúc trưởng thành phổ biến 1,3 - 1,4 kg/con. VC chiếm 65 - 70% số vịt của cả nước và được nuôi ở các vùng sinh thái Việt Nam.
VỊT BẦU
(tk. vịt bầu Bến, bầu Quỳ), giống vịt thịt nguồn gốc ở vùng Chợ Bến, tỉnh Hoà Bình, Việt Nam. Lông con cái màu cánh sẻ; con trống cổ và đầu màu xanh cánh trả, lông đuôi màu xanh đen. Sản lượng trứng 80 - 110 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 68 - 73 g. Con mái lúc trưởng thành nặng 2,1 - 2,3 kg; con trống nặng 2,4 - 2,5 kg
VÒT KAKI CAMBELL
(Chưa tìm thấy tư liệu)
VỊT SIÊU THỊT
(Viết tắt bằng tiếng Anh: CV Super - M), giống vịt chuyên thịt, có nguồn gốc từ Anh. Có 2 dòng M1, M2. VST có lông màu trắng tuyền, thân hình chữ nhật. Đầu to, mắt to và nhanh. Mỏ to, màu vàng tươi hoặc vàng pha xanh. Cổ to, dài vừa phải. Lưng phẳng rộng. Ngực sâu và rộng. Đuôi ngắn. Chân to, ngắn vừa phải, màu vàng hoặc phớt xanh.
Dáng đi chậm chạp. Khó phân biệt con đực và con cái (con đực ở đuôi có lông quăn). Vịt dòng M1 sau khi lai cho vịt nuôi thịt 56 ngày tuổi nặng 2,5 - 3,0 kg. Nuôi làm giống dòng bố M1 có sản lượng trứng 40 tuần đẻ 140 - 181 quả, dòng mẹ 181 - 184 quả. Dòng M2 tăng hơn M1 5%. Nuôi 56 ngày tuổi, con lai nặng 3,0 - 3,5 kg, tiêu tốn 2,6 - 2,8 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng. VST được nuôi nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thích hợp với chăn nuôi theo phương thức công nghiệp. Nuôi bán chăn thả phải bổ sung thức ăn
Cá rô phi đơn tính có nhiều ưu điểm hơn so với cá rô phi thường, như: lớn nhanh, ăn tạp nên dễ nuôi. Khi nuôi loại cá này người nuôi có thể quyết định được cỡ cá thương phẩm, kiểm soát được mật độ thả…Nói chung là hiệu quả kinh tế cao hơn cá rô phi thườngNếu nuôi tốt, sau 7 tháng nuôi cá đạt 300 đến 350g/con. Một năm đạt 500 đến 600g/con, trọng lượng cá tối đa đạt 1-1,2 kg/con
Đẻ nhanh, nhiều(ở ngoài Bắc).
Cá này cũng được các nhà chăn nuôi nuôi rất nhiều và lớn nhanh
Cá chép lai
Cá đang nuôi tại Việt Nam có xuất xứ trực tiếp từ Quảng Đông, Trung Quốc; cá Chim trắng được nhập vào Việt Nam năm 1998. Ban đầu chúng ta chỉ nhập cá con, sau vài năm, VN mình đã cho sinh sản nhân tạo. Vì loài cá này có hình dáng hao hao giống cá chim ở biển (tên khoa học là Colossoma brachypomum, họ cá ... Chép !), nên người Trung Quốc gọi nó là "cá chim trắng nước ngọt".
Cá chim trắng sống ở tầng nước giữa và dưới, hay sống thành đàn, là loài cá ăn tạp, phổ thức ăn rất rộng. Thời kỳ trưởng thành cá ăn được nhiều loài thực vật, các loại hạt ngũ cốc, mùn bã hữu cơ, động vật như giun đất, nhộng tằm, tôm cá nhỏ, ốc; hến, thịt phế phẩm... Đặc đặc điểm mà người câu cần nắm rõ là: cá chim trắng bắt mồi và nuốt mồi rất nhanh, thường ăn ngầm từ giữa tầng nước đến sát đáy; khi dính câu, do thân bè ra hình mái trai nên cá hay sàng ngang, trì níu tạo sự hứng khởi (cảm giác) cho người câu. Nó là loại cá có hàm răng vều ra, cứng khoẻ; nếu cho thoải mái, chúng có thể nhai đứt luôn cá cọng dây thép inox mịn buộc đuôi lưỡi câu./.
Cá chim trắng
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Thu Hằng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)