Bài 19. Văn học và khoa học thời Hậu Lê
Chia sẻ bởi Vũ Thảo Giang |
Ngày 14/10/2018 |
27
Chia sẻ tài liệu: Bài 19. Văn học và khoa học thời Hậu Lê thuộc Lịch sử 4
Nội dung tài liệu:
BÀI 19
VĂN HỌC VÀ KHOA HỌC THỜI HẬU LÊ
Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế có hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Văn học chữ Nôm giữ một vị trí quan trọng. Văn thơ chữ Hán có những tác phẩm nổi tiếng như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca... Văn thơ chữ Nôm có Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn v.v...
Văn học thời Lê Sơ có nội dung yêu nước sâu sắc thể hiện niềm tự hào dân tộc khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc[8]. Ngoài ra văn học thời Lê Sơ xuất hiện 1 bộ phận tác giả chuyên sử dụng văn học làm công cụ chỉ để ca ngợi nhà vua. Phần lớn các tác phẩm loại này được viết với lời lẽ rất trau chuốt, ý tứ cẩu kỳ và tình cảm giả tạo[9].
Sử học có tác phẩm: Đại Việt sử kí (10 quyển) của Phan Phu Tiên, Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển) của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, Đại Việt thông giám của Vũ Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung, Hoàng triều quan chế...
Địa lí học có sách Hồng Đức bản đồ Dư địa chí An Nam hình thăng dồ, Dư địa chí của Nguyễn Trãi.
Y học có công trình Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên và Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực
Toán học có các tác phẩm Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán pháp của Vũ Hữu.
Ngoài ra thời Lê Sơ cũng cho biên soạn Điển lệ là loại sách tổng hợp thành tựu của nhiều ngành. Bộ Thiên Nam dư hạ tập gồm 100 quyển của Lê Thánh Tông cũng là 1 ví dụ cụ thể.
Nghệ thuật sân khấu như ca múa nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển nhất là chèo, tuồng. Âm nhạc cung đình được hình thành từ thời Lê Thái Tông.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê Sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm cung điện tại Lam Kinh (Thanh Hóa).
Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh ở Thanh Hóa như nền cột bậc thềm một số con vật bằng đá. Cung điện Lam kinh xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314 mét rộng 254 mét, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong các bia đá, nổi tiếng nhất là bia Vĩnh Lăng (viết về vua Lê Thái Tổ).
* Tư tưởng Nhà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu mực cho cách cai trị của triều đại. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của thời đại. Có thể nói rằng Nho giáo đã trở thành quốc giáo độc tôn trong triều đình cũng như trong dân gian.
Nho giáo bắt mọi người phải tuyệt đối phục tùng quyền hành tối thượng của nhà vua, thần thánh hóa nhà vua và phân biệt rạch ròi ranh giới giữa vua, quan, dân.
Các nho sĩ được đào tạo bởi học thuyết Khổng Mạnh tăng lên gấp bội và thay thế hoàn toàn các tăng sĩ trong cuộc sống chính trị, kinh tế văn hóa. Công việc giáo dục Nho học trở thành quy củ. Nhà nước khuyến khích học để làm quan, giúp vua trị nước. Nhà Lê tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xương danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy (lễ đón rước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu (bắt đầu từ 1422). Vì thế ai nấy đua nhau học hành để tôn tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được mở mặt và để làng quê được vinh hiển.
Như thế công việc giáo dục Nho học đã trở thành quy củ. Ngoài trường Quốc Tử Giám ra còn có các trường học ở các đạo, phủ với rất đông học trò. Các kỳ thi được các sĩ tử khắp nơi hưởng ứng. Ví dụ như kỳ thi hội năm 1475 có êến 3.000 thí sinh Nho Giáo đã áp đảo tuyệt đối Phật giáo lẫn Đạo giáo.
VUA LÊ THÁNH TÔNG
Phiên bản bia Vĩnh Lăng,
Lam Kinh, Thanh Hóa
Đĩa gốm men lam trang trí rồng thế kỷ 15
DƯ ĐỊA CHÍ
QUỐC ÂM THI TẬP
HÀ NỘI QUA BẢN ĐỒ THỜI HỒNG ĐỨC
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO – NGUYỄN TRÃI
VĂN HỌC VÀ KHOA HỌC THỜI HẬU LÊ
Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế có hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Văn học chữ Nôm giữ một vị trí quan trọng. Văn thơ chữ Hán có những tác phẩm nổi tiếng như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca... Văn thơ chữ Nôm có Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn v.v...
Văn học thời Lê Sơ có nội dung yêu nước sâu sắc thể hiện niềm tự hào dân tộc khí phách anh hùng và tinh thần bất khuất của dân tộc[8]. Ngoài ra văn học thời Lê Sơ xuất hiện 1 bộ phận tác giả chuyên sử dụng văn học làm công cụ chỉ để ca ngợi nhà vua. Phần lớn các tác phẩm loại này được viết với lời lẽ rất trau chuốt, ý tứ cẩu kỳ và tình cảm giả tạo[9].
Sử học có tác phẩm: Đại Việt sử kí (10 quyển) của Phan Phu Tiên, Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển) của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, Đại Việt thông giám của Vũ Quỳnh, Việt giám thông khảo tổng luận của Lê Tung, Hoàng triều quan chế...
Địa lí học có sách Hồng Đức bản đồ Dư địa chí An Nam hình thăng dồ, Dư địa chí của Nguyễn Trãi.
Y học có công trình Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên và Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực
Toán học có các tác phẩm Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán pháp của Vũ Hữu.
Ngoài ra thời Lê Sơ cũng cho biên soạn Điển lệ là loại sách tổng hợp thành tựu của nhiều ngành. Bộ Thiên Nam dư hạ tập gồm 100 quyển của Lê Thánh Tông cũng là 1 ví dụ cụ thể.
Nghệ thuật sân khấu như ca múa nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển nhất là chèo, tuồng. Âm nhạc cung đình được hình thành từ thời Lê Thái Tông.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê Sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm cung điện tại Lam Kinh (Thanh Hóa).
Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh ở Thanh Hóa như nền cột bậc thềm một số con vật bằng đá. Cung điện Lam kinh xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314 mét rộng 254 mét, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong các bia đá, nổi tiếng nhất là bia Vĩnh Lăng (viết về vua Lê Thái Tổ).
* Tư tưởng Nhà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu mực cho cách cai trị của triều đại. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của thời đại. Có thể nói rằng Nho giáo đã trở thành quốc giáo độc tôn trong triều đình cũng như trong dân gian.
Nho giáo bắt mọi người phải tuyệt đối phục tùng quyền hành tối thượng của nhà vua, thần thánh hóa nhà vua và phân biệt rạch ròi ranh giới giữa vua, quan, dân.
Các nho sĩ được đào tạo bởi học thuyết Khổng Mạnh tăng lên gấp bội và thay thế hoàn toàn các tăng sĩ trong cuộc sống chính trị, kinh tế văn hóa. Công việc giáo dục Nho học trở thành quy củ. Nhà nước khuyến khích học để làm quan, giúp vua trị nước. Nhà Lê tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xương danh (lễ đọc tên người thi đậu), lễ vinh quy (lễ đón rước người thi đậu về làng) và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu (bắt đầu từ 1422). Vì thế ai nấy đua nhau học hành để tôn tuổi được ghi vào bảng vàng, để gia môn được mở mặt và để làng quê được vinh hiển.
Như thế công việc giáo dục Nho học đã trở thành quy củ. Ngoài trường Quốc Tử Giám ra còn có các trường học ở các đạo, phủ với rất đông học trò. Các kỳ thi được các sĩ tử khắp nơi hưởng ứng. Ví dụ như kỳ thi hội năm 1475 có êến 3.000 thí sinh Nho Giáo đã áp đảo tuyệt đối Phật giáo lẫn Đạo giáo.
VUA LÊ THÁNH TÔNG
Phiên bản bia Vĩnh Lăng,
Lam Kinh, Thanh Hóa
Đĩa gốm men lam trang trí rồng thế kỷ 15
DƯ ĐỊA CHÍ
QUỐC ÂM THI TẬP
HÀ NỘI QUA BẢN ĐỒ THỜI HỒNG ĐỨC
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO – NGUYỄN TRÃI
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Thảo Giang
Dung lượng: 790,09KB|
Lượt tài: 0
Loại file: pptx
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)