Van hoc viet nam sau 1975
Chia sẻ bởi Phạm Thị Thúy |
Ngày 08/05/2019 |
32
Chia sẻ tài liệu: van hoc viet nam sau 1975 thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ
THAM GIA TẬP HUẤN MÔN NGỮ VĂN
HÈ 2009
CHƯƠNG III: THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
SAU NĂM 1975
I. TIẾN TRÌNH THƠ VÀ ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC.
1. Sơ lược về tiến trình vận động của thơ sau 1975.
* Sự khác biệt cơ bản giữa thơ trước và sau năm 1975.
- 1930 – 1945, khuynh hướng lãng mạn, đề cao cái tôi cá nhân.
- 1945 – 1975, mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- 1975 đến nay, trở về với khuynh hướng thế sự, đời tư.
Giai đoạn đầu: Hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ tiếp tục
là nguồn cảm hứng lớn:
Sơ lược về tiến trình vận động của thơ
sau năm 1975. (tiếp)
Thơ thể hiện niềm hân hoan toàn thắng và niềm xúc động sum
họp Bắc Nam của những người con được trở về quê hương sau
hơn 20 năm xa cách.
Những nhà thơ trẻ có nhu cầu nhìn lại con đường mình và cả
thế hệ mình đã đi qua để chiêm nghiệm về lịch sử, qua những
trải nghiệm của chính mình và của thế hệ mình.
Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng thơ về đề tài chống Mĩ. Những
chiêm nghiệm của cá nhân các nhà thơ đã làm cho sự khái quát
lịch sử có phần cụ thể, xác thực và thấm thía.
Sơ lược về tiến trình vận động của thơ
sau năm 1975. (tiếp)
Những năm đầu thập kỉ 80, đất nước ta rơi vào khủng hoảng kinh
tế - xã hội. Thực tại xã hội bộc lộ nhiều mặt trái, nhiều vấn đề bức
xúc.Bằng cái nhìn tỉnh táo và ý thức trách nhiệm cao, các nhà thơ
không né tránh sự thật đau lòng, những bất công, ngang trái và cả
những trì trệ của xã hội.Thơ giai đoạn này thể hiện sự tự vấn, sự
tự thú, sự thức tỉnh.
Cuối những năm 80 đến nay thơ ca có sự phát triển mạnh mẽ về
ý thức cá nhân, thể hiện khát vọng đào sâu vào thế giới bên trong
con người, đặc biệt là thế giới tâm linh, những vùng mở của tiềm
thức vô thức. Nhiều xu hướng thơ được nảy nở, nhiều thể nghiệm
mạnh bạo được ra mắt công chúng.
I. TIẾN TRÌNH THƠ VÀ ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC.
2. Lực lượng sáng tác.
Thế hệ các nhà thơ tiền chiến vẫn tiếp tục có mặt trong
khoảng 10 đến 15 năm đầu: Chế Lan Viên, Tố Hữu, Xuân
Diệu, Huy Cận, ...
Một thế hệ các nhà thơ trẻ xuất hiện: Nguyễn Quang Thiều,
Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh; các nhà thơ dân tộc:
Y Phương, Lâm Quý, Lò Ngân Sủn, ...
II. NHỮNG KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRONG THƠ
TỪ SAU NĂM 1975.
Tiếp tục mạch cảm hứng sử thi nhưng thiên về
bi tráng và gắn với những trải nghiệm cá nhân.
- Các tác phẩm: Những người đi tới biển (Thanh Thảo),
Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh), Sư đoàn (Nguyễn
Đức Mậu),...
Nội dung: tái hiện hành trình của dân tộc, của các
thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ qua vô vàn gian nan,
thử thách của chiến tranh. Qua đó thể hiện suy
ngẫm, những trải nghiệm các nhân.
Hướng vào đời sống thế sự và trở về
với cái tôi cá nhân.
Phơi bày thực trạng xã hội với nhiều mặt trái
vốn trước đó bị che khuất.
Thể hiện nỗi lo âu, nỗi buồn nhân thế, sự cô đơn
của con người trước cuộc sống.
- Các nhà thơ nữ thể hiện sự khát khao hạnh phúc,
trở về với những lo toan, bộn bề thường nhật.
- Các nhà thơ trẻ đề cao ý thức cá nhân, cái tôi cá nhân.
3. Đi sâu vào vùng mở của tâm linh, vô thức
và đưa thơ theo hướng tượng trưng, siêu thực.
Cuối những năm 80, đầu những năm 90, nhiều tập thơ mang
khuynh hướng “hiện đại chủ nghĩa” xuất hiện.
+ Các tác giả: Hoàng Cầm, Hoàng Hưng, Lê Đạt, Dương Tường,...
+ Các tác phẩm: Về Kinh Bắc, Mưa Thuận Thành, Lá Diêu
Bông (Hoàng Cầm); Ngựa biển, Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng); Bóng chữ (Lê Đạt); 36 bài tình (Lê Đạt và Dương Tường); Bến lạ, Ô mai (Đặng Đình Hưng)...
Quan niệm: Thơ là sự biểu hiện cái tôi ở phần tiềm thức,
vô thức, tâm linh, được biểu đạt bằng ấn tượng , biểu
tượng, bằng những ám thị.
Đóng góp: Thể hiện ý hướng triệt để cách tân thơ, vượt ra
khỏi những khuôn khổ và thói quen đã định hình quá lâu,
mở ra những con đường mới và khả năng mới cho thơ.
Hạn chế: Đưa thơ chìm sâu vào cõi mông lung, vô thức, chối bỏ
ý thức, biến thơ trở thành một thứ trò chơi ngôn từ dễ có nguy
cơ đẩy thơ vào 1 thế giới khép kín, không có hoặc có rất ít mối
liên hệ với đời sống. Làm cho ý thức giáo dục trong thơ không còn.
3. Đi sâu vào vùng mở của tâm linh, vô thức và đưa
thơ theo hướng tượng trưng, siêu thực. (tiếp)
III. NHÌN CHUNG VỀ NHỮNG ĐỔI MỚI
CỦA THƠ SAU 1975
Tính chất phi sử thi hóa, hướng vào đời sống thế sự và cá
nhân làm xuất hiện nhiều dạng thức mới của cái tôi trữ tinh.
2. Thơ ngày nay muốn vượt ra khỏi truyền thống “duy cảm”
với hai xu hướng:
- Đưa thơ về gắn với văn xuôi, với triết học.
- Đưa thơ sang địa hạt của tâm linh , vô thức.
3. Tự do hóa triệt để về hình thức thơ trên các phương diện :
kết cấu bài thơ, tổ chức câu thơ, ngôn ngữ, giọng điệu,...
THAM GIA TẬP HUẤN MÔN NGỮ VĂN
HÈ 2009
CHƯƠNG III: THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
SAU NĂM 1975
I. TIẾN TRÌNH THƠ VÀ ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC.
1. Sơ lược về tiến trình vận động của thơ sau 1975.
* Sự khác biệt cơ bản giữa thơ trước và sau năm 1975.
- 1930 – 1945, khuynh hướng lãng mạn, đề cao cái tôi cá nhân.
- 1945 – 1975, mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- 1975 đến nay, trở về với khuynh hướng thế sự, đời tư.
Giai đoạn đầu: Hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ tiếp tục
là nguồn cảm hứng lớn:
Sơ lược về tiến trình vận động của thơ
sau năm 1975. (tiếp)
Thơ thể hiện niềm hân hoan toàn thắng và niềm xúc động sum
họp Bắc Nam của những người con được trở về quê hương sau
hơn 20 năm xa cách.
Những nhà thơ trẻ có nhu cầu nhìn lại con đường mình và cả
thế hệ mình đã đi qua để chiêm nghiệm về lịch sử, qua những
trải nghiệm của chính mình và của thế hệ mình.
Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng thơ về đề tài chống Mĩ. Những
chiêm nghiệm của cá nhân các nhà thơ đã làm cho sự khái quát
lịch sử có phần cụ thể, xác thực và thấm thía.
Sơ lược về tiến trình vận động của thơ
sau năm 1975. (tiếp)
Những năm đầu thập kỉ 80, đất nước ta rơi vào khủng hoảng kinh
tế - xã hội. Thực tại xã hội bộc lộ nhiều mặt trái, nhiều vấn đề bức
xúc.Bằng cái nhìn tỉnh táo và ý thức trách nhiệm cao, các nhà thơ
không né tránh sự thật đau lòng, những bất công, ngang trái và cả
những trì trệ của xã hội.Thơ giai đoạn này thể hiện sự tự vấn, sự
tự thú, sự thức tỉnh.
Cuối những năm 80 đến nay thơ ca có sự phát triển mạnh mẽ về
ý thức cá nhân, thể hiện khát vọng đào sâu vào thế giới bên trong
con người, đặc biệt là thế giới tâm linh, những vùng mở của tiềm
thức vô thức. Nhiều xu hướng thơ được nảy nở, nhiều thể nghiệm
mạnh bạo được ra mắt công chúng.
I. TIẾN TRÌNH THƠ VÀ ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC.
2. Lực lượng sáng tác.
Thế hệ các nhà thơ tiền chiến vẫn tiếp tục có mặt trong
khoảng 10 đến 15 năm đầu: Chế Lan Viên, Tố Hữu, Xuân
Diệu, Huy Cận, ...
Một thế hệ các nhà thơ trẻ xuất hiện: Nguyễn Quang Thiều,
Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh; các nhà thơ dân tộc:
Y Phương, Lâm Quý, Lò Ngân Sủn, ...
II. NHỮNG KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRONG THƠ
TỪ SAU NĂM 1975.
Tiếp tục mạch cảm hứng sử thi nhưng thiên về
bi tráng và gắn với những trải nghiệm cá nhân.
- Các tác phẩm: Những người đi tới biển (Thanh Thảo),
Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh), Sư đoàn (Nguyễn
Đức Mậu),...
Nội dung: tái hiện hành trình của dân tộc, của các
thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ qua vô vàn gian nan,
thử thách của chiến tranh. Qua đó thể hiện suy
ngẫm, những trải nghiệm các nhân.
Hướng vào đời sống thế sự và trở về
với cái tôi cá nhân.
Phơi bày thực trạng xã hội với nhiều mặt trái
vốn trước đó bị che khuất.
Thể hiện nỗi lo âu, nỗi buồn nhân thế, sự cô đơn
của con người trước cuộc sống.
- Các nhà thơ nữ thể hiện sự khát khao hạnh phúc,
trở về với những lo toan, bộn bề thường nhật.
- Các nhà thơ trẻ đề cao ý thức cá nhân, cái tôi cá nhân.
3. Đi sâu vào vùng mở của tâm linh, vô thức
và đưa thơ theo hướng tượng trưng, siêu thực.
Cuối những năm 80, đầu những năm 90, nhiều tập thơ mang
khuynh hướng “hiện đại chủ nghĩa” xuất hiện.
+ Các tác giả: Hoàng Cầm, Hoàng Hưng, Lê Đạt, Dương Tường,...
+ Các tác phẩm: Về Kinh Bắc, Mưa Thuận Thành, Lá Diêu
Bông (Hoàng Cầm); Ngựa biển, Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng); Bóng chữ (Lê Đạt); 36 bài tình (Lê Đạt và Dương Tường); Bến lạ, Ô mai (Đặng Đình Hưng)...
Quan niệm: Thơ là sự biểu hiện cái tôi ở phần tiềm thức,
vô thức, tâm linh, được biểu đạt bằng ấn tượng , biểu
tượng, bằng những ám thị.
Đóng góp: Thể hiện ý hướng triệt để cách tân thơ, vượt ra
khỏi những khuôn khổ và thói quen đã định hình quá lâu,
mở ra những con đường mới và khả năng mới cho thơ.
Hạn chế: Đưa thơ chìm sâu vào cõi mông lung, vô thức, chối bỏ
ý thức, biến thơ trở thành một thứ trò chơi ngôn từ dễ có nguy
cơ đẩy thơ vào 1 thế giới khép kín, không có hoặc có rất ít mối
liên hệ với đời sống. Làm cho ý thức giáo dục trong thơ không còn.
3. Đi sâu vào vùng mở của tâm linh, vô thức và đưa
thơ theo hướng tượng trưng, siêu thực. (tiếp)
III. NHÌN CHUNG VỀ NHỮNG ĐỔI MỚI
CỦA THƠ SAU 1975
Tính chất phi sử thi hóa, hướng vào đời sống thế sự và cá
nhân làm xuất hiện nhiều dạng thức mới của cái tôi trữ tinh.
2. Thơ ngày nay muốn vượt ra khỏi truyền thống “duy cảm”
với hai xu hướng:
- Đưa thơ về gắn với văn xuôi, với triết học.
- Đưa thơ sang địa hạt của tâm linh , vô thức.
3. Tự do hóa triệt để về hình thức thơ trên các phương diện :
kết cấu bài thơ, tổ chức câu thơ, ngôn ngữ, giọng điệu,...
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Thị Thúy
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)