Truyện ngắn Làng
Chia sẻ bởi Vũ Long |
Ngày 12/10/2018 |
17
Chia sẻ tài liệu: Truyện ngắn Làng thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
Đề bài: Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân VN thời kháng chiến chống thực dân Pháp?
I.Mở bài:
- Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam có sở trường về truyện ngắn. Ông vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Vì thế, ông được xem là nhà văn của nông thôn, của người dân quê Việt Nam với những vẻ đẹp mộc mạc và đậm đà. Ra đời vào năm 1948 – thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, “Làng” của Kim Lâm đã xây dựng rất thành công hình tượng người nông dân thời kì Cách mạng mà tình yêu làng quê đã hoà nhập trong lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Ông Hai Thu – nhân vật chính của truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.
II. Thân bài:
1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):
- Sinh ra và lớn lên ở làng Chợ Dầu, ông Hai yêu cái làng của mình bằng một tình yêu vốn có từ lâu, sâu sắc mà bền vững như tình yêu của một người nông dân gắn bó với cảnh vật và con người nơi quê hương yêu dấu. Qua trang văn của Kim Lân , ông Hai hiện lên với những nét phẩm chất truyền thống tốt đẹp của người nông dân ngàn đời: chăm chỉ, cần cù, hiền lành, chất phát với nhiều lo toan cho cuộc sống. Tuy nhiên, ấn tượng sâu đậm nhất về nhân vật này khi đọc tác phẩm chính là tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến. Đây là nét mới trong tình cảm của người nông dân VN thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Luận điểm 1: Tình yêu làng quê tha thiết:
- Là người dân làng Chợ Dầu, ông Hai khoe và kể về làng mình như một “cố tật” – một “cố tật” đáng yêu. Ông khoe làng ông giàu có nhất vùng, phong cảnh hữu tình, “nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”, đường trong làng “lát toàn đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối làng không hề lấm gót”… Niềm tự hào trong ông Hai về làng quê của mình đúng với nét tâm lí phổ biến trong người nông dân: làng mình là đẹp nhất! Điều đó hoàn toàn hợp lí với tấm lòng yêu mến, gắn bó với làng quê của người nông dân mộc mạc. Ông Hai còn cường điệu, tự hào mãnh liệt đến cái sinh phần của cụ Thượng “vườn hoa cây cảnh nom như động ấy!” mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông.
- Kháng chiến bùng nổ, làng ông tích cực tham gia kháng chiến, các cụ bô lão “cũng tập một hai”. Ông Hai vui sướng trước không khí của cuộc sống mới, không khí kháng chiến của làng ông. Và cũng vì thế, ông Hai hiểu rằng: “xây cái lăng ấy, cả làng ông phải phu phen, tạp dịch, bản thân ông cái chân bị đá rơi vào đau đến tận bây giờ”. Điều đó, cũng có nghĩa là ông Hai hiểu tội ác của bọn thực dân phong kiến. Ông không tự hào về cái sinh phần của viên quan tổng đốc nữa. Trong ông Hai có sự chuyển biến mới về nhận thức và tình cảm, ông khoe về tinh thần kháng chiến của làng, mỗi lần kể “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”.
- Theo lệnh của kháng chiến, ông Hai cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ về làng: “Chao ôi! Ông lão thấy nhớ cái làng quá!” Điều đó cho thầy ông Hai không chỉ yêu làng mà tình cảm đó còn là máu thịt trong ông, nó thường trực sẵn có trong con người ông vậy. Ông có trách nhiệm với làng quê, luôn theo dõi tin tức của làng, tin tức kháng chiến. Ông thường ra phòng thông tin nghe đọc báo. Ông Hai vui sướng trước những tin chiến thắng của quân dân ta “Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan lại hai bốt thao ngay giữa chợ…Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả…”, “ruột gan ông lão như múa cả lên”. Ngôn ngữ của người nông dân được Kim Lân vận dụng rất thành công trong những lời độc thoại của ông Hai để diễn tả tâm trạng phấn khởi của ông trước những tin tức kháng chiến.
3.Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:
- Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông Hai. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người mới tản cư qua vùng ông.
- Khi nghe tin
I.Mở bài:
- Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam có sở trường về truyện ngắn. Ông vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Vì thế, ông được xem là nhà văn của nông thôn, của người dân quê Việt Nam với những vẻ đẹp mộc mạc và đậm đà. Ra đời vào năm 1948 – thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, “Làng” của Kim Lâm đã xây dựng rất thành công hình tượng người nông dân thời kì Cách mạng mà tình yêu làng quê đã hoà nhập trong lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Ông Hai Thu – nhân vật chính của truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.
II. Thân bài:
1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):
- Sinh ra và lớn lên ở làng Chợ Dầu, ông Hai yêu cái làng của mình bằng một tình yêu vốn có từ lâu, sâu sắc mà bền vững như tình yêu của một người nông dân gắn bó với cảnh vật và con người nơi quê hương yêu dấu. Qua trang văn của Kim Lân , ông Hai hiện lên với những nét phẩm chất truyền thống tốt đẹp của người nông dân ngàn đời: chăm chỉ, cần cù, hiền lành, chất phát với nhiều lo toan cho cuộc sống. Tuy nhiên, ấn tượng sâu đậm nhất về nhân vật này khi đọc tác phẩm chính là tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến. Đây là nét mới trong tình cảm của người nông dân VN thời kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Luận điểm 1: Tình yêu làng quê tha thiết:
- Là người dân làng Chợ Dầu, ông Hai khoe và kể về làng mình như một “cố tật” – một “cố tật” đáng yêu. Ông khoe làng ông giàu có nhất vùng, phong cảnh hữu tình, “nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”, đường trong làng “lát toàn đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối làng không hề lấm gót”… Niềm tự hào trong ông Hai về làng quê của mình đúng với nét tâm lí phổ biến trong người nông dân: làng mình là đẹp nhất! Điều đó hoàn toàn hợp lí với tấm lòng yêu mến, gắn bó với làng quê của người nông dân mộc mạc. Ông Hai còn cường điệu, tự hào mãnh liệt đến cái sinh phần của cụ Thượng “vườn hoa cây cảnh nom như động ấy!” mặc dầu đó là một chứng tích đau khổ của dân làng, trong đó có ông.
- Kháng chiến bùng nổ, làng ông tích cực tham gia kháng chiến, các cụ bô lão “cũng tập một hai”. Ông Hai vui sướng trước không khí của cuộc sống mới, không khí kháng chiến của làng ông. Và cũng vì thế, ông Hai hiểu rằng: “xây cái lăng ấy, cả làng ông phải phu phen, tạp dịch, bản thân ông cái chân bị đá rơi vào đau đến tận bây giờ”. Điều đó, cũng có nghĩa là ông Hai hiểu tội ác của bọn thực dân phong kiến. Ông không tự hào về cái sinh phần của viên quan tổng đốc nữa. Trong ông Hai có sự chuyển biến mới về nhận thức và tình cảm, ông khoe về tinh thần kháng chiến của làng, mỗi lần kể “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”.
- Theo lệnh của kháng chiến, ông Hai cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ về làng: “Chao ôi! Ông lão thấy nhớ cái làng quá!” Điều đó cho thầy ông Hai không chỉ yêu làng mà tình cảm đó còn là máu thịt trong ông, nó thường trực sẵn có trong con người ông vậy. Ông có trách nhiệm với làng quê, luôn theo dõi tin tức của làng, tin tức kháng chiến. Ông thường ra phòng thông tin nghe đọc báo. Ông Hai vui sướng trước những tin chiến thắng của quân dân ta “Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan lại hai bốt thao ngay giữa chợ…Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả…”, “ruột gan ông lão như múa cả lên”. Ngôn ngữ của người nông dân được Kim Lân vận dụng rất thành công trong những lời độc thoại của ông Hai để diễn tả tâm trạng phấn khởi của ông trước những tin tức kháng chiến.
3.Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:
- Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông Hai. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người mới tản cư qua vùng ông.
- Khi nghe tin
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Long
Dung lượng: 37,50KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)