Tìm hiểu về pin volta và pin leclanché
Chia sẻ bởi Nguyễn Thành Long |
Ngày 26/04/2019 |
104
Chia sẻ tài liệu: tìm hiểu về pin volta và pin leclanché thuộc Vật lí 7
Nội dung tài liệu:
PIN VOLTA
Pin Volta là một bộ các tế bào Galvanic riêng đặt thành xê ri, được Alessandro Volta người Ý phát minh năm 1800. Đó là đó là một tấm kẽm và một tấm đồng nhúng trong axit sunfuric, nếu nối hai tấm kim loại này với nhau thì nó có thể sản sinh ra dòng điện liên tục và ổn định. Pin Volta chính là mẫu hình cho các phát minh sau này như pin điện phân được dùng để tách nước thành oxy và hydro của William Nicholson và Anthony Carlisle hay pin hóa học natri (1807), kali (1807) , canxi (1808), boron (1808), bari(1808),stronti (1808) và magie (1808) của Humphry Davy
Phát minh của Volta được xây dựng dựa trên khám phá vào năm 1786, trong khi thực hiện một bài giảng, giáo sư Cơ thể học Luigi Galvani (1737-1798) tại trường Đại học Bologne, Italy, đã dùng một thanh kim loại đâm vào một con nhái đã lột da và đã làm chân con nhái co giật lại. Volta thử lại thí nghiệm của Galvani và đã phát hiện ra rằng cơ thể con ếch chỉ là một chất dẫn điện thường. Chính dòng điện sinh ra trong các kim loại khác bản chất đã kích thích các dây thần kinh, và làm hoạt động các cơ. Và để chứng minh sự lầm lẫn của sự Galvani, Volta tạo ra điện với một thanh đồng và một thanh kẽm mà không cần có cơ thể con ếch. Năm 1800, Volta đã thực hiện một loạt các thử nghiệm dùng kẽm, chì, thiếc và sắt làm tấm tích điện âm (cathode); và đồng, bạc, vàng, than chì như một tấm tích điện dương (anode). Sau đó, ông xếp các tấm trái cực xen kẽ với nhau, ngăn cách bởi miếng giấy xốp tẩm dung dịch muối ăn. Cuối cùng, ông nối điểm đầu với điểm cuối với một sợi dây dẫn và nhận thấy có 1 dòng điện chạy qua. Alessandro Volta đã trình diện phát minh này với Napoleon Bonaparte tại Paris vào ngày 6 tháng 11 năm 1801. Ngày 10 tháng 3 năm 1800, Volta đã viết cho Hội Hoàng gia London mô tả kỹ thuật tạo dòng điện bằng cách sử dụng pin của mình.
PIN LECLANCHÉ
Pin Leclanché là loại pin được phát minh và được cấp bằng sáng chế bởi nhà khoa học người Pháp Georges Leclanché năm 1866. Pin chứa một dung dịch dẫn điện (chất điện li) là amoni clorua, một cathode (cực dương) là cacbon, chất khử cực là mangan dioxit (chất oxy hóa) và một anode (cực âm) là kẽm (chất khử). Hóa chất của loại pin này sau đó đã được điều chỉnh thành công để sản xuất một loại pin khô.
Lịch sử
Năm 1866, Georges Leclanché đã phát minh ra một loại pin bao gồm một anode kẽm và một cathode mangan dioxit bọc trong một vật liệu xốp, nhúng trong một lọ dung dịch amoni clorua. Cathode mangan dioxit có một ít cacbon trộn vào để cải thiện độ dẫn và hấp thụ điện. Nó cung cấp một điện áp 1,4 volt. Loại pin này đạt được hiệu quả rất nhanh trong điện báo, tín hiệu và chuông điện.
Pin khô được sử dụng làm nguồn điện cho các điện thoại sơ khai - thường là từ một hộp gỗ liền kề gắn vào tường — trước khi điện thoại có thể lấy điện từ đường dây điện thoại. Pin Leclanché không thể cung cấp dòng điện bền vững trong một thời gian dài. Trong các cuộc trò chuyện dài, pin sẽ cạn dần, khiến cuộc trò chuyện không thể tiếp tục. Điều này là do một số phản ứng hóa học trong pin làm tăng điện trở bên trong và do đó làm giảm điện áp. Những phản ứng này tự đảo ngược khi pin không hoạt động, vì vậy nó chỉ tốt cho việc sử dụng liên tục.
Thiết kế
Hình thức ban đầu của pin là sử dụng một bình xốp. Điều này đã làm nó có một điện trở bên trong tương đối cao và nhiều sửa đổi đã được thực hiện để giảm nó. Chúng bao gồm các "khối ô kết tụ" và "bao pin". Leclanché và sau đó là Carl Gassner, cả hai đã phấn đấu để biến đổi loại pin ướt ban đầu thành một loại pin khô di động và hiệu quả hơn.
-Pin bình xốp
Trong loại pin nguyên bản của Leclanché, chất khử cực (trên thực tế là chất oxy hóa trong pin), bao gồm mangan dioxit được nghiền nát, được đóng gói vào một cái bình và một thanh cacbon được chèn vào để hoạt động như cathode (phản ứng khử). Anode (phản ứng oxy hóa) là một thanh kẽm, sau đó được nhúng vào bình dung dịch amoni clorua. Dung dịch lỏng hoạt động như chất điện li, thấm qua bình xốp để tiếp xúc với cathode.
-Khối ô kết tụ
Năm 1871 Leclanché pha chế với bình xốp và thay thế nó bằng một cặp "khối kết tụ", gắn vào tấm cacbon bằng các dải cao su. Các khối này được tạo ra bằng cách trộn
Pin Volta là một bộ các tế bào Galvanic riêng đặt thành xê ri, được Alessandro Volta người Ý phát minh năm 1800. Đó là đó là một tấm kẽm và một tấm đồng nhúng trong axit sunfuric, nếu nối hai tấm kim loại này với nhau thì nó có thể sản sinh ra dòng điện liên tục và ổn định. Pin Volta chính là mẫu hình cho các phát minh sau này như pin điện phân được dùng để tách nước thành oxy và hydro của William Nicholson và Anthony Carlisle hay pin hóa học natri (1807), kali (1807) , canxi (1808), boron (1808), bari(1808),stronti (1808) và magie (1808) của Humphry Davy
Phát minh của Volta được xây dựng dựa trên khám phá vào năm 1786, trong khi thực hiện một bài giảng, giáo sư Cơ thể học Luigi Galvani (1737-1798) tại trường Đại học Bologne, Italy, đã dùng một thanh kim loại đâm vào một con nhái đã lột da và đã làm chân con nhái co giật lại. Volta thử lại thí nghiệm của Galvani và đã phát hiện ra rằng cơ thể con ếch chỉ là một chất dẫn điện thường. Chính dòng điện sinh ra trong các kim loại khác bản chất đã kích thích các dây thần kinh, và làm hoạt động các cơ. Và để chứng minh sự lầm lẫn của sự Galvani, Volta tạo ra điện với một thanh đồng và một thanh kẽm mà không cần có cơ thể con ếch. Năm 1800, Volta đã thực hiện một loạt các thử nghiệm dùng kẽm, chì, thiếc và sắt làm tấm tích điện âm (cathode); và đồng, bạc, vàng, than chì như một tấm tích điện dương (anode). Sau đó, ông xếp các tấm trái cực xen kẽ với nhau, ngăn cách bởi miếng giấy xốp tẩm dung dịch muối ăn. Cuối cùng, ông nối điểm đầu với điểm cuối với một sợi dây dẫn và nhận thấy có 1 dòng điện chạy qua. Alessandro Volta đã trình diện phát minh này với Napoleon Bonaparte tại Paris vào ngày 6 tháng 11 năm 1801. Ngày 10 tháng 3 năm 1800, Volta đã viết cho Hội Hoàng gia London mô tả kỹ thuật tạo dòng điện bằng cách sử dụng pin của mình.
PIN LECLANCHÉ
Pin Leclanché là loại pin được phát minh và được cấp bằng sáng chế bởi nhà khoa học người Pháp Georges Leclanché năm 1866. Pin chứa một dung dịch dẫn điện (chất điện li) là amoni clorua, một cathode (cực dương) là cacbon, chất khử cực là mangan dioxit (chất oxy hóa) và một anode (cực âm) là kẽm (chất khử). Hóa chất của loại pin này sau đó đã được điều chỉnh thành công để sản xuất một loại pin khô.
Lịch sử
Năm 1866, Georges Leclanché đã phát minh ra một loại pin bao gồm một anode kẽm và một cathode mangan dioxit bọc trong một vật liệu xốp, nhúng trong một lọ dung dịch amoni clorua. Cathode mangan dioxit có một ít cacbon trộn vào để cải thiện độ dẫn và hấp thụ điện. Nó cung cấp một điện áp 1,4 volt. Loại pin này đạt được hiệu quả rất nhanh trong điện báo, tín hiệu và chuông điện.
Pin khô được sử dụng làm nguồn điện cho các điện thoại sơ khai - thường là từ một hộp gỗ liền kề gắn vào tường — trước khi điện thoại có thể lấy điện từ đường dây điện thoại. Pin Leclanché không thể cung cấp dòng điện bền vững trong một thời gian dài. Trong các cuộc trò chuyện dài, pin sẽ cạn dần, khiến cuộc trò chuyện không thể tiếp tục. Điều này là do một số phản ứng hóa học trong pin làm tăng điện trở bên trong và do đó làm giảm điện áp. Những phản ứng này tự đảo ngược khi pin không hoạt động, vì vậy nó chỉ tốt cho việc sử dụng liên tục.
Thiết kế
Hình thức ban đầu của pin là sử dụng một bình xốp. Điều này đã làm nó có một điện trở bên trong tương đối cao và nhiều sửa đổi đã được thực hiện để giảm nó. Chúng bao gồm các "khối ô kết tụ" và "bao pin". Leclanché và sau đó là Carl Gassner, cả hai đã phấn đấu để biến đổi loại pin ướt ban đầu thành một loại pin khô di động và hiệu quả hơn.
-Pin bình xốp
Trong loại pin nguyên bản của Leclanché, chất khử cực (trên thực tế là chất oxy hóa trong pin), bao gồm mangan dioxit được nghiền nát, được đóng gói vào một cái bình và một thanh cacbon được chèn vào để hoạt động như cathode (phản ứng khử). Anode (phản ứng oxy hóa) là một thanh kẽm, sau đó được nhúng vào bình dung dịch amoni clorua. Dung dịch lỏng hoạt động như chất điện li, thấm qua bình xốp để tiếp xúc với cathode.
-Khối ô kết tụ
Năm 1871 Leclanché pha chế với bình xốp và thay thế nó bằng một cặp "khối kết tụ", gắn vào tấm cacbon bằng các dải cao su. Các khối này được tạo ra bằng cách trộn
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thành Long
Dung lượng: |
Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)