Tìm hiểu về dư địa chí Việt Nam
Chia sẻ bởi Thân Thị Thanh |
Ngày 16/10/2018 |
48
Chia sẻ tài liệu: Tìm hiểu về dư địa chí Việt Nam thuộc Lịch sử 9
Nội dung tài liệu:
chí
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dư địa chí (Hán tự: 輿地誌), còn gọi là Ức Trai di tập Nam Việt dư địa chí (抑齋遺集南越輿地誌), Đại Việt địa dư chí (大越地輿誌), An Nam vũ cống (安南禹貢), Nam Quốc vũ cống (南國禹貢), Lê triều cống pháp (黎朝貢法), là một cuốn sách viết bằng chữ Hán, ghi chép sơ lược về địa lý hành chính và tự nhiên của Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, do Nguyễn Trãi (hiệu Ức Trai), một danh thần của nhà Hậu Lê, biên soạn vào năm 1435. Đây chính là tác phẩm "điạ lý học lịch sử đầu tiên của Việt Nam" [1].
Mục lục
[ẩn]
1 Ra đời và thăng trầm
2 Giới thiệu văn bản
3 Giá trị
4 Xem thêm
5 Sách tham khảo
6 Chú thích
Ra và thăng [sửa | sửa mã nguồn]
Chán cảnh quan trường, Nguyễn Trãi xin về hưu ở Côn Sơn (chí Linh, Hải Dương ngày nay) vào khoảng cuối những năm 30 của thế kỷ 15 [2].
Đến năm Giáp Dần (1434), ông lại được vua Lê Thái Tông triệu ra làm quan. Sau đó, để giúp vua hiểu biết thêm về đất nước, ông được giao cho làm một tập sách, tức cuốn Dư địa chí, và làm trong vòng 10 ngày thì xong.
Căn cứ mục 1 trong Dư địa chí, thì tác phẩm được làm vào năm 1435 [3], đồng thời cũng đã xác định bờ cõi của nước Đại Việt lúc bấy giờ. Tác giả viết:
"Năm thứ 2 hiệu Thiệu Bình (1435, đời vua Lê Thái Tông), đức giáo hóa của nhà vua đã lan xa đến bốn chung quanh, các nước chư hầu đều đến triều cống. Hành khiển là Lê Trãi (vốn họ Nguyễn, năm 1428, được ban quốc tính họ Lê) bèn làm sách (Dư địa chí) tiến lên vua, (và) nói rằng: Nước ta mới mở, gồm có sông núi, phía đông giáp biển, phía tây đến nước Thục, phía đông đến Chiêm Thành, phía bắc đến hồ Động Đình"...[4]
Theo một số nhà nghiên cứu, thì cuốn này nằm trong một bộ sách lớn có tên là Quốc thư bảo huấn đại toàn, cũng do vua Lê Thái Tông sai ông soạn vào năm 1434. Bởi trên đầu sách có ghi 6 chữ "Quốc thư bảo huấn đại toàn", rồi mới đến tên "Dư địa chí" [5].
Năm Nhâm Tuất (1442), xảy ra vụ án Lệ Chi Viên, triều đình xử tội chết Nguyễn Trãi cùng với ba họ của ông, đồng thời ban lệnh thiêu hủy tất cả các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Đến năm Giáp Thân (1464), vua Lê Thánh Tông xuống chiếu xóa án cho Nguyễn Trãi, và sau đó (1467) còn "ra lệnh tìm kiếm những di cảo thơ văn" của ông [6].
Thi hành chỉ thị trên, khoảng 10 năm sau, Trần Khắc Kiệm mới sưu tầm được hơn trăm bài thơ. Phải hơn 100 năm sau nữa (khoảng đầu thế kỷ 19), các ông Nguyễn Năng Tĩnh,Ngô Thế Vinh và Dương Bá Cung mới sưu tầm được nhiều hơn, làm thành 7 quyển, gọi là Ức Trai di tập. Trong đó, quyển thứ 6 chính là Dư địa chí.
Nhờ tìm được Dư địa chí, mà biết được ngoài tác giả là Nguyễn Trãi, còn có thêm lời tập chú của Nguyễn Thiên Tích, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Túng tập chú và lời thông luận của Lý Tử Tấn. Những người này đều sống cùng thời với Nguyễn Trãi. Ngoài ra, ở cuối sách còn có bài của Ngô Sĩ Liên trích dẫn sách Chí lược[7] và các sách Trung Quốc nói về vị trí các vùng trời của Việt Nam. Sau nữa, còn có hai bài của Lý thị [8] nói về việc tập sách đã được đem khắc in, rồi đã bị hủy bỏ ra sao.
Trích lời họ Lý (dịch từ chữ Hán): ..."Khi Ức Trai (Nguyễn Trãi) đem dâng sách này (Dư địa chí), (Lê) Thái Tông khen ngợi, sai thợ khắc ván in để phổ biến. Đến khi (Thái Tông) tuần hành tỉnh Đông bị chết đột ngột, triều đình bàn tán cho là bà họ Nguyễn (Thị Lộ) vợ Nguyễn Trãi giết vua, kết tội cả ba họ nhà Nguyễn Trãi, (thì) quan Đại Tư đồ Lê Liệt (Đinh Liệt) sai thợ hủy bản sách ấy đi [9]. Sau Lê Nhân Tông|(Lê) Nhân Tông]] lớn lên, đủ sức nắm chính quyền, Lê Liệt bị giam ở ngục “thổ lao”. Vua Nhân Tông vào Bí thư các, xem các sách vở, thấy bản sách của Ức Trai còn sót lại, bảo quần thần rằng “Nguyễn Trãi trung thành, giúp đức (Lê) Thái Tổ vũ trang dẹp giặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dư địa chí (Hán tự: 輿地誌), còn gọi là Ức Trai di tập Nam Việt dư địa chí (抑齋遺集南越輿地誌), Đại Việt địa dư chí (大越地輿誌), An Nam vũ cống (安南禹貢), Nam Quốc vũ cống (南國禹貢), Lê triều cống pháp (黎朝貢法), là một cuốn sách viết bằng chữ Hán, ghi chép sơ lược về địa lý hành chính và tự nhiên của Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, do Nguyễn Trãi (hiệu Ức Trai), một danh thần của nhà Hậu Lê, biên soạn vào năm 1435. Đây chính là tác phẩm "điạ lý học lịch sử đầu tiên của Việt Nam" [1].
Mục lục
[ẩn]
1 Ra đời và thăng trầm
2 Giới thiệu văn bản
3 Giá trị
4 Xem thêm
5 Sách tham khảo
6 Chú thích
Ra và thăng [sửa | sửa mã nguồn]
Chán cảnh quan trường, Nguyễn Trãi xin về hưu ở Côn Sơn (chí Linh, Hải Dương ngày nay) vào khoảng cuối những năm 30 của thế kỷ 15 [2].
Đến năm Giáp Dần (1434), ông lại được vua Lê Thái Tông triệu ra làm quan. Sau đó, để giúp vua hiểu biết thêm về đất nước, ông được giao cho làm một tập sách, tức cuốn Dư địa chí, và làm trong vòng 10 ngày thì xong.
Căn cứ mục 1 trong Dư địa chí, thì tác phẩm được làm vào năm 1435 [3], đồng thời cũng đã xác định bờ cõi của nước Đại Việt lúc bấy giờ. Tác giả viết:
"Năm thứ 2 hiệu Thiệu Bình (1435, đời vua Lê Thái Tông), đức giáo hóa của nhà vua đã lan xa đến bốn chung quanh, các nước chư hầu đều đến triều cống. Hành khiển là Lê Trãi (vốn họ Nguyễn, năm 1428, được ban quốc tính họ Lê) bèn làm sách (Dư địa chí) tiến lên vua, (và) nói rằng: Nước ta mới mở, gồm có sông núi, phía đông giáp biển, phía tây đến nước Thục, phía đông đến Chiêm Thành, phía bắc đến hồ Động Đình"...[4]
Theo một số nhà nghiên cứu, thì cuốn này nằm trong một bộ sách lớn có tên là Quốc thư bảo huấn đại toàn, cũng do vua Lê Thái Tông sai ông soạn vào năm 1434. Bởi trên đầu sách có ghi 6 chữ "Quốc thư bảo huấn đại toàn", rồi mới đến tên "Dư địa chí" [5].
Năm Nhâm Tuất (1442), xảy ra vụ án Lệ Chi Viên, triều đình xử tội chết Nguyễn Trãi cùng với ba họ của ông, đồng thời ban lệnh thiêu hủy tất cả các tác phẩm của Nguyễn Trãi. Đến năm Giáp Thân (1464), vua Lê Thánh Tông xuống chiếu xóa án cho Nguyễn Trãi, và sau đó (1467) còn "ra lệnh tìm kiếm những di cảo thơ văn" của ông [6].
Thi hành chỉ thị trên, khoảng 10 năm sau, Trần Khắc Kiệm mới sưu tầm được hơn trăm bài thơ. Phải hơn 100 năm sau nữa (khoảng đầu thế kỷ 19), các ông Nguyễn Năng Tĩnh,Ngô Thế Vinh và Dương Bá Cung mới sưu tầm được nhiều hơn, làm thành 7 quyển, gọi là Ức Trai di tập. Trong đó, quyển thứ 6 chính là Dư địa chí.
Nhờ tìm được Dư địa chí, mà biết được ngoài tác giả là Nguyễn Trãi, còn có thêm lời tập chú của Nguyễn Thiên Tích, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Túng tập chú và lời thông luận của Lý Tử Tấn. Những người này đều sống cùng thời với Nguyễn Trãi. Ngoài ra, ở cuối sách còn có bài của Ngô Sĩ Liên trích dẫn sách Chí lược[7] và các sách Trung Quốc nói về vị trí các vùng trời của Việt Nam. Sau nữa, còn có hai bài của Lý thị [8] nói về việc tập sách đã được đem khắc in, rồi đã bị hủy bỏ ra sao.
Trích lời họ Lý (dịch từ chữ Hán): ..."Khi Ức Trai (Nguyễn Trãi) đem dâng sách này (Dư địa chí), (Lê) Thái Tông khen ngợi, sai thợ khắc ván in để phổ biến. Đến khi (Thái Tông) tuần hành tỉnh Đông bị chết đột ngột, triều đình bàn tán cho là bà họ Nguyễn (Thị Lộ) vợ Nguyễn Trãi giết vua, kết tội cả ba họ nhà Nguyễn Trãi, (thì) quan Đại Tư đồ Lê Liệt (Đinh Liệt) sai thợ hủy bản sách ấy đi [9]. Sau Lê Nhân Tông|(Lê) Nhân Tông]] lớn lên, đủ sức nắm chính quyền, Lê Liệt bị giam ở ngục “thổ lao”. Vua Nhân Tông vào Bí thư các, xem các sách vở, thấy bản sách của Ức Trai còn sót lại, bảo quần thần rằng “Nguyễn Trãi trung thành, giúp đức (Lê) Thái Tổ vũ trang dẹp giặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Thân Thị Thanh
Dung lượng: 117,50KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)