Thuyết minh "Bến Tre" Phần 2

Chia sẻ bởi Huỳnh Phúc | Ngày 03/05/2019 | 28

Chia sẻ tài liệu: Thuyết minh "Bến Tre" Phần 2 thuộc Ngữ văn 8

Nội dung tài liệu:




Bến Tre















CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ
Người Bến Tre có quyền tự hào vì đã xứng đáng là dân một nước có 4000 năm văn hiến. Nói đến Bến Tre, chúng ta liên tưởng đến những người dân thuần hậu, hiền lành nhưng cương quyết, dám hi sinh vì đại nghĩa. Thời nhà Nguyễn có những " ông già Ba Tri". Nhiều lớp người nổi tiếng như Gia Định tam gia (tam kiệt) là Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định. Rồi Phan Thanh Giản, tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ. Rồi Trương Vĩnh Ký, 1 trong 18 nhà bác học lừng danh của thế giới vào thế kỷ 19. Về văn hoá có Cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu và con gái là Nguyễn Thị Ngọc Khuê - nhà báo nữ đầu tiên của Việt Nam với bút danh Sương Nguyệt Ánh. Trong kháng chiến chống Mỹ có những người con tên tuổi đã đi vào sử sách như: liệt sĩ Trần Văn Ơn, nữ anh hùng quân đội Nguyễn Thị Định (tiên phong trong chiến dịch "Đường Hồ Chí Minh trên biển" năm 1946), Nguyễn Văn Sĩ...
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về các nhân vật lịch sử:

SỰ TÍCH ÔNG GIÀ BA TRI
Xưa kia, vào thời vua Tự Đức, có một ông lão bị xử kiện oan ức, về vụ kiện cái đập nước chợ ngoài làng Vĩnh Đức Trung nay là Vĩnh Hoà (quận Ba Tri). Ông kêu oan lên đi dinh huyện, quan huyện xử ông thất kiện. Tuy nhiên, ông tin rằng "lẽ phải bao giờ cũng thắng", ông chuẩn bị cơm gói, đi bộ từ Ba Tri đến kinh đô Huế để kêu oan. Con đường từ Ba Tri đến Huế quá dài, hơn 1000 cây số, đó là chua kể những khúc đường quanh co, lên đèo xuống ải. Tuy vậy, ông lão cứ lên đường, đói thì xin ăn, mệt thì ngủ nhờ trong nhà bên vệ đường, hoặc chịu cảnh màn trời chiếu đất. Tuy nhiên, sức khoẻ của ông vẫn dẻo dai. Dọc đường, ông vẫn không nản chí mặc dù nhiều người cản ngăn, cho rằng khi đến Huế thì quần bô áo vải như ông khó bề yết kiến bệ rồng, nhà vua đâu đủ thì giờ để xem xét phân xử một vụ kiện nhỏ bé mà nhà cầm quyền địa phương đã giải quyết.

Tấm gương kiên nhẫn, sự tin tưởng ấy đáng cho đời sau noi gương. Vì vậy, danh từ "ông già Ba Tri" đã được phổ biến ngoài phạm vi tỉnh Bến Tre, trở thành lời khen ngợi mà người dân miền Nam dành riêng cho những ai biết sống, biết tiến lên bất chấp gian khổ, không kể lời chê bai nhất thời của những người có đầu óc nông cạn và ích kỷ.
Năm 1825, ơng đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau môt năm, ông dđậu Tiến si khoa Bính Tuất (1826), Khi 30 tuổi, ôngdđậu tiến si đầu tiên ở Nam Bộ.
Sau khi thi đỗ, ông được cử làm chánh sứ sang nước Thanh (1832). Khi tr? được giư` chức t thượng thư bộ Lễ, Bộ Hình, Bộ Hộ, làm quan trải qua 3 đời vua: Minh M?nh, Thi?u Tr?, Tự Đức (Từ 1826 đến 1867).
Cá tính cương trực , thẳng thắng,hi?u nghia, thanh li�m, được nhi?u người kính phục. Ơng cũgn từng được cử làm chánh sứ sang Trung Qu?c, Indonesia, Singapore, Pháp, Tây Ban Nha.
Khi Pháp chiếm Nam Kỳ(1862), ông bị ép làm Duy Hi?p được cử sang Pháp, đại diện cho cho tri?u đình Tự Đức k� hiệp ước Nhâm Tuất (05-06-1862) giao tr?n ba t?nh mi?n Nam k? cho Pháp.
Phan
Thanh
Giản


Naêm 1863,oâng ñöôïc cöû laøm Chaùnh söù sang Phaùp thöông nghị cuoäc ba tỉnh miền Ñoâng Nam Ky ønhöng ho coù keát quaû. Trôû veà Vónh Long(1867) oâng ñeå maát thaønh, ba tỉnh miền Taây Nam Kyrôi tieáp vaøo tay giặc. Sau khi thaønh mất oânoâng tuyeät thöïc suoát 17 ngaøy, uoáng thuoác ñoäc töï töï (4-8-1867)taïi Vĩnh Long.
Trong côn nöôùc bieán, thaùi ñoä chuû hoaø cuûa oâng khieán moät soá ngöôøi ko ñoàng tình. Lấy lý do naøy, vua Töï Ñöùc keát toäi oâng laøm Nam Kyø bò maát vaø cho ñuïc boû teân oâng trong bia tieán só.
Khi saép maát , oâng d8aïn con chaùu ko ñöôïc coâng taùc vôùi Phaùp vaø töï tay vieát maáy doøng ñeå laïi cho ngöôøi nhaø.
Tiểu sử Trương Vĩnh Ký
1837: được sinh ra tại Vĩnh Thành, tỉnh Vĩnh Long
1865; làm phiên dịch chp Phan Thanh Giản sang Pháp
1868: làm chủ tờ báo "Gia Định báo", "An Nam chính trị và xã hội"
1875:xuất bản"Kim Vân Kiều truyện","sử kí An Nam"
1876: đi thăm tỉnh đất Bắc
1881: cho ra đời "chuyến đi Bắc Kỳ" năm Ất Hợi
1884: xuất bản "Việt - Pháp" từ đển
1889: viết thư tuyệt mệnh và mất trong cảnh nghèo khó



 Ông đọc, nói giỏi 15 sinh ngữ từ ngữ của phương Tây, nắm chắc 11 ngôn ngữ phương Ðông. Ðược giới học thuật nước ngoài liệt vào hàng 18 nhà bác học thế giới.
      Ông viết nhiều sách dịch thuật, khảo cứu và sáng tác, để lại 118 tác phẩm lớn nhỏ, góp phần vào việc phổ biến chữ Quốc Ngữ đối với dân tộc.
�Trương Vĩnh Ký
Nguyễn Đình Chiểu(1-7-1822) tại Gia Định, Sài Gòn. Cha là Nguyễn Đình Huy, mẹ là Trương Thị Thiệt. Tuổi thanh thiếu, từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội.
Năm 1843 ông thi đỗ tú tài ở trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học, chưa kịp đi thì hay tin mẹ mất, trên đường về vì đau xót, ong lâm bệnh và mù cả 2 mắt.
Sau khi mãn tang, ông bốc thuốc chữa bệnh,dạy học và sáng tác văn thơ. Đặc biệt, là tác phẩm "Lục Vân Tiên".

tác phẩm đề cập đến vấn đề đạo nghĩa ở đời, mang dấu ấn tự nhiên, được phổ biến rộng rãi. Khi giặc Pháp kéo đến, trong cảnh gia đình chạy trốn , ông đã cho ra đời tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Một thời gian sau đó, ông lại tiếp tục cho ra đời những tác phẩm bất hủ như " Văn tế nghĩa sĩ trâ�n vong Lục Tỉnh", "Ngư tiều y thuật vấn đáp".

Bến Tre không phải là nơi ông sinh ra nhưng là ông chọn để sống và hoạt động suốt 26 năm qua và đã vĩnh viễn gởi xương cốt tại đây. Mộ và khu tưởng niệm của ông được công nhận là di tích văn hoá vào ngày 24-2-1990. Nơi đây thật yên bình, khu lăng mộ được bao bọc bởi một vườn hoa kiểng xanh phủ mát tầm nhìn. Khu đện thờ giống như một tòa tháp với mái ngói màu xanh rêu. Tầng trệt là nơi lưu trữ một số hình ảnh của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước qua các thời kì, của nhân dân trong và ngoài nước khi đến viếng lăng mộ.
Nơi thờ Nguyễn
Đình Chiểu
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Huỳnh Phúc
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)