Tham Khảo về Sao Chổi
Chia sẻ bởi Trần Anh Huy |
Ngày 17/10/2018 |
23
Chia sẻ tài liệu: Tham Khảo về Sao Chổi thuộc Vật lí 7
Nội dung tài liệu:
SAO CHỔI ***
Sao chổi là các thiên thể nhỏ bằng băng và bụi chuyển động trên những quỹ đạo thuôn dài, khi đến gần Mặt trời thì hình thành đuôi sáng. Một số sao chổi sáng khi xuất hiện trên bầu trời đêm sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với người quan sát nó. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, việc quan sát bầu trời cũng như sao chổi bị ánh sáng của đèn đường ánh sáng từ các thành phố lớn làm hạn chế rất nhiều. Thời xưa, sự xuất hiện của một sao chổi bị coi là điềm báo của của một điềm gở. Nó đến mang theo bệnh tật, mất mùa, chiến tranh. Giáo hoàng Pole Calixtus III đã rút phép thông công của sao chổi Halley khi nó xuất hiện trên bầu trời vào năm 1456 trùng vào thời gian này, một cuộc chiến tranh lớn đã nổ ra do người Thổ Nhĩ Kỳ gây nên ở Đông Nam châu Âu. Có ba loại sao chổi: - Sao chổi có chu kì ngắn: là sao chổi có chu kì chuyển động quanh Mặt trời với chu kì dưới 30 năm như sao chổi Biela có chu kì 6,6 năm. Có khoảng 100 sao chổi loại này. - Sao chổi có chu kì trung bình: là sao chổi có chu kì trên 30 năm đến hàng thế kỉ như sao chổi Ikeya Seki xuất hiện năm 1965 và sẽ thấy lại vào năm 2845. - Sao chổi có chu kì dài: là những sao chổi khó có thể dự đoán được đường đi của chúng hoặc chỉ nhìn thấy chúng có 1 lần. Các sao chổi loại này chiếm đến 50% số sao chổi và đều xuất phát từ đám mây Oort. Cấu tạo của sao chổi Sao chổi gồm hai phần chính: đầu sao chổi và đuôi. - Đầu sao chổi bao gồm: nhân sao chổi và phần khí và bụi bao xung quanh nhân gọi là coma. Nhân sao chổi có khối lượng rất bé, chỉ dưới một phần triệu khối lượng Trái đất và kích thước từ vài km đến vài chục km. Coma thường có kích thước 50.000 đến vài trăm ngàn km, tối thiểu là 15.000 km. Những sao chổi lớn, coma có thể có kích thước lên tới 1,8 triệu km. Các thiết bị quan sát quang phổ đã xác định vật chất ở nhân sao gồm các hợp chất của Hidro và nito, băng nước, amoniac, metan, oxit cacbon. - Đuôi sao chổi là phần có kích thước lớn nhất gồm bụi, khí CO¬2, CO, hơi nước và chỉ xuất hiện khi sao chổi đến gần Mặt trời khoảng 100 triệu km. Khi tiến đến gần Mặt trời, nhân sao chổi bị đốt nóng dần lên, băng thăng hoa, những luồng khí lạnh thoát mạnh ra bên ngoài tạo thành một lớp mây sáng. Lớp khí chứa hơi nước này phản chiếu mạnh ánh sáng Mặt trời nên sáng lên. Áp lực của gió Mặt trời thổi mạnh về phía sao chổi, đẩy phần khí và bụi ra phía sau tạo thành đuôi của sao chổi. Khi càng đến gần Mặt trời thì đuôi của sao chổi càng dài và hướng về hướng đối lại Mặt trời. khi đi xa Mặt trời, đuôi sao chổi ngắn dần cho đến khi không còn áp lực và sức nóng nữa thì đuôi sẽ mất đi, lúc đó sao chổi chỉ còn trơ trọi lại một cái nhân nhỏ bé tiếp tục di chuyển trên quỹ đạo của nó. Kích thước của đuôi sao chổi dài hàng triệu km. Tuy có kích thước lớn như vậy nhưng mật độ vật chất của nó lại rất loãng, trong 1 cm3 khí chỉ chứa vài ngàn nguyên tử và phân tử khí nên nó gần như trong suốt. Vận tốc của sao chổi nói chung biến đổi từ hơn 1000 km/h ở khoảng không ngoài xa Mặt trời cho tới 2 triệu km/h khi tới gần Mặt trời. Vật chất của đuôi sao chổi là vật chất của nhân sao chổi thăng hoa nên nó khiến cho nhân sao chổi bị hao mòn, mất dần khối lượng sau mỗi lần đi qua gần Mặt trời. Chính vì vậy mà khi một sao chổi xuất hiện lại, ta thấy độ sáng của nó giảm bớt đi và đuôi cũng ngắn dần và đến một lúc nào đó không còn trông thấy nữa. Nguồn gốc của sao chổi Các nhà thiên văn học cho rằng hầu hết các sao chổi đến từ đám mây Oort. Đám mây này được đặt theo tên của Jan Oort - một nhà thiên văn học người Hà Lan - người đã phát hiện ra nó. Đám mây Oort là một đám mây lớn hình cầu bao bọc xung quanh hệ mặt trời, cách Mặt trời khoảng 40.0000 đến 100.000 AU. Đám mây này chứa hàng tỉ tỉ các vật thể băng - ứng cử viên để trở thành sao chổi. Một số sao chổi khác lại có nguồn gốc từ vành đai Kuiper nằm bên ngoài quỹ đạo của sao Hải vương. Vành đai Kuiper có phần ngoài tiếp giáp với phần trong cùng của đám mây Oort. Khi các vật thể băng này quay trong đám mây Oort hoặc
Sao chổi là các thiên thể nhỏ bằng băng và bụi chuyển động trên những quỹ đạo thuôn dài, khi đến gần Mặt trời thì hình thành đuôi sáng. Một số sao chổi sáng khi xuất hiện trên bầu trời đêm sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với người quan sát nó. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, việc quan sát bầu trời cũng như sao chổi bị ánh sáng của đèn đường ánh sáng từ các thành phố lớn làm hạn chế rất nhiều. Thời xưa, sự xuất hiện của một sao chổi bị coi là điềm báo của của một điềm gở. Nó đến mang theo bệnh tật, mất mùa, chiến tranh. Giáo hoàng Pole Calixtus III đã rút phép thông công của sao chổi Halley khi nó xuất hiện trên bầu trời vào năm 1456 trùng vào thời gian này, một cuộc chiến tranh lớn đã nổ ra do người Thổ Nhĩ Kỳ gây nên ở Đông Nam châu Âu. Có ba loại sao chổi: - Sao chổi có chu kì ngắn: là sao chổi có chu kì chuyển động quanh Mặt trời với chu kì dưới 30 năm như sao chổi Biela có chu kì 6,6 năm. Có khoảng 100 sao chổi loại này. - Sao chổi có chu kì trung bình: là sao chổi có chu kì trên 30 năm đến hàng thế kỉ như sao chổi Ikeya Seki xuất hiện năm 1965 và sẽ thấy lại vào năm 2845. - Sao chổi có chu kì dài: là những sao chổi khó có thể dự đoán được đường đi của chúng hoặc chỉ nhìn thấy chúng có 1 lần. Các sao chổi loại này chiếm đến 50% số sao chổi và đều xuất phát từ đám mây Oort. Cấu tạo của sao chổi Sao chổi gồm hai phần chính: đầu sao chổi và đuôi. - Đầu sao chổi bao gồm: nhân sao chổi và phần khí và bụi bao xung quanh nhân gọi là coma. Nhân sao chổi có khối lượng rất bé, chỉ dưới một phần triệu khối lượng Trái đất và kích thước từ vài km đến vài chục km. Coma thường có kích thước 50.000 đến vài trăm ngàn km, tối thiểu là 15.000 km. Những sao chổi lớn, coma có thể có kích thước lên tới 1,8 triệu km. Các thiết bị quan sát quang phổ đã xác định vật chất ở nhân sao gồm các hợp chất của Hidro và nito, băng nước, amoniac, metan, oxit cacbon. - Đuôi sao chổi là phần có kích thước lớn nhất gồm bụi, khí CO¬2, CO, hơi nước và chỉ xuất hiện khi sao chổi đến gần Mặt trời khoảng 100 triệu km. Khi tiến đến gần Mặt trời, nhân sao chổi bị đốt nóng dần lên, băng thăng hoa, những luồng khí lạnh thoát mạnh ra bên ngoài tạo thành một lớp mây sáng. Lớp khí chứa hơi nước này phản chiếu mạnh ánh sáng Mặt trời nên sáng lên. Áp lực của gió Mặt trời thổi mạnh về phía sao chổi, đẩy phần khí và bụi ra phía sau tạo thành đuôi của sao chổi. Khi càng đến gần Mặt trời thì đuôi của sao chổi càng dài và hướng về hướng đối lại Mặt trời. khi đi xa Mặt trời, đuôi sao chổi ngắn dần cho đến khi không còn áp lực và sức nóng nữa thì đuôi sẽ mất đi, lúc đó sao chổi chỉ còn trơ trọi lại một cái nhân nhỏ bé tiếp tục di chuyển trên quỹ đạo của nó. Kích thước của đuôi sao chổi dài hàng triệu km. Tuy có kích thước lớn như vậy nhưng mật độ vật chất của nó lại rất loãng, trong 1 cm3 khí chỉ chứa vài ngàn nguyên tử và phân tử khí nên nó gần như trong suốt. Vận tốc của sao chổi nói chung biến đổi từ hơn 1000 km/h ở khoảng không ngoài xa Mặt trời cho tới 2 triệu km/h khi tới gần Mặt trời. Vật chất của đuôi sao chổi là vật chất của nhân sao chổi thăng hoa nên nó khiến cho nhân sao chổi bị hao mòn, mất dần khối lượng sau mỗi lần đi qua gần Mặt trời. Chính vì vậy mà khi một sao chổi xuất hiện lại, ta thấy độ sáng của nó giảm bớt đi và đuôi cũng ngắn dần và đến một lúc nào đó không còn trông thấy nữa. Nguồn gốc của sao chổi Các nhà thiên văn học cho rằng hầu hết các sao chổi đến từ đám mây Oort. Đám mây này được đặt theo tên của Jan Oort - một nhà thiên văn học người Hà Lan - người đã phát hiện ra nó. Đám mây Oort là một đám mây lớn hình cầu bao bọc xung quanh hệ mặt trời, cách Mặt trời khoảng 40.0000 đến 100.000 AU. Đám mây này chứa hàng tỉ tỉ các vật thể băng - ứng cử viên để trở thành sao chổi. Một số sao chổi khác lại có nguồn gốc từ vành đai Kuiper nằm bên ngoài quỹ đạo của sao Hải vương. Vành đai Kuiper có phần ngoài tiếp giáp với phần trong cùng của đám mây Oort. Khi các vật thể băng này quay trong đám mây Oort hoặc
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trần Anh Huy
Dung lượng: 50,50KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)