Tập huấn bàn tay nặng bột 2014
Chia sẻ bởi Nguyễn Hoàng Thanh |
Ngày 04/05/2019 |
44
Chia sẻ tài liệu: tập huấn bàn tay nặng bột 2014 thuộc Tập đọc 3
Nội dung tài liệu:
T?P HU?N
PHUONG PHP "BN TAY N?N B?T "
TRONG D?Y H?C CC MễN KHOA H?C
C?P TI?U H?C
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BÌNH DƯƠNG
Bình Dương , ngày 31/7/2014
“ Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. "Bàn tay nặn bột" (BTNB) chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra…
1. KHÁI NIỆM CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC “ BÀN TAY NẶN BỘT ”
Với một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức.
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, BTNB luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
Georges Charpak – Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp- giải Nobel Vật lí 1992
BÀN TAY NẶN BỘT
Phương pháp dạy học tích cực
Trên thí nghiệm nghiên cứu
Áp dụng môn khoa học tự nhiên
-Chú trọng hình thành kiến thức:
+ Bằng các thí nghiệm, tìm tòi
+ Chính học sinh tìm ra câu trả lời
THÍ NGHIỆM – QUAN SÁT – NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU – ĐIỀU TRA,…
- Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh.
- Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
- Giảng dạy khoa học dựa trên tìm tòi khám phá.
2. MỤC TIÊU CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC “ BÀN TAY NẶN BỘT ”
- Bản chất: Việc phát hiện, tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua việc GV giúp HS tự đi lại chính con đường mà các nhà khoa học đã nghiên cứu tìm ra chân lý ( kiến thức ):
3. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC “ BÀN TAY NẶN BỘT ”
+ Dạy học phải tự nhiên như qúa trình tìm ra chân lý
+ PPBTNB áp dụng chủ yếu cho dạy khoa học tự nhiên, công nghệ, khoa học TN, các chủ đề gắn với đời sống thực tiễn của HS.
+ Với PPBTNB, kể cả HS đọc sách trước;học thêm trước hoặc biết trước KT thì chưa chắc HS hiểu tường tận và đề xuất thí nghiệm CM cho phát biểu đúng. HS sẽ lúng túng khi hỏi lại: vì sao em biết điều đó? Làm thế nào để em có thể chứng minh kết luận của em đúng? Nếu dạy trước thì tiết học không hấp dẫn.
- Đặc trưng: Ngoài những đặc trưng cơ bản, còn cần chú ý:
+ Trong CT hiện nay có bài áp dụng cả, có bài áp dụng một phần
+ Sử dụng PPBTNB không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai. Thông qua thí nghiệm, chính HS sẽ tự đánh giá đúng hay sai.
+ PPBTNB chú trọng đến quan niệm ban đầu của học sinh về kiến thức mới sẽ học.
+ Sử dụng vở thí nghiệm (vở nghiên cứu), như là một phương tiện rèn ngôn ngữ, tập ghi chép nghiên cứu khoa học.
4. 10 NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC “ BÀN TAY NẶN BỘT ”
1. HS quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, có thể cảm nhận được và tiến hành thực nghiệm về chúng.
2. Trong quá trình tìm hiểu, HS lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên.
* Nguyên tắc về tiến trình sư phạm :
3. Những hoạt động do GV đề xuất cho HS được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho HS một phần tự chủ khá lớn.
4. Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập.
5. Bắt buộc mỗi HS phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em.
6. Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của HS.
7. Các gia đình hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.
8. Ở địa phương, các cơ sở khoa học ( Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu ...) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
9.Ở địa phương, các viện đào tạo GV ( Trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học Sư phạm) giúp các GV về kinh nghiệm và phương pháp dạy học
* Nguyên tắc về những đối tượng tham gia :
10. GV có thể tìm thấy trên internet các website có nội dung về những môđun kiến thức ( bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải pháp thắc mắc. GV cũng có thể tham gia hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, với các nhà sư phạm và với các nhà khoa học. GV là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
5. Vai trò của người giáo viên trong việc giảng dạy theo phương pháp “ Bàn tay nặn bột ”
- Vai trò của người giáo viên trong phương pháp BTNB , cũng giống như đối với các phương pháp dạy học tích cực khác, đó là hướng dẫn.
+ Người giáo viên không phải là trung tâm của quá trình dạy học, chỉ nói và đặt câu hỏi mà ngược lại, giáo viên nên nói ít cũng như hạn chế đưa ra những câu hỏi chuẩn xác cho học sinh. Điều quan trọng ở đây là giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo luận, giúp các em thấy sự thống nhất ý kiến và hướng dẫn học sinh thảo luận tích cực.
6. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB
Bước 1 : Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
- Tình huống xuất phát hay câu hỏi nêu vấn đề do giáo viên đưa ra như một cách dẫn dắt vào bài học.
- Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ.
Bước 2 : Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh
- Làm bộc lộ quan điểm ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi của học sinh là bước quan trọng, đặc trưng của Phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
-Trong bước này, GV khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức mới. Để làm bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh Giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu học sinh trình bày quan niệm ban đầu giáo viên có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức như lời nói, vẽ hoặc viết ....
Bước 3 : Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
- Từ những khác biệt phong phú ban đầu của học sinh, giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy vào những quan niệm liên quan đến các kiến thức trọng tâm của bài học, hay mô đun kiến thức.
- Đây là bước khó khăn của giáo viên vì cần phải chọn lựa quan niệm ban đầu tiêu biểu trong các quan niệm của học sinh một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học.
Bước 4 : Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu.
Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh, đề nghị các em đề xuất các giả thuyết và thiết kế các phương án thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để kiểm chứng các giả thuyết nhằm tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.
Bước 5 : Kết luận và hợp thức hoá kiến thức.
- Sau khi thực hiện các thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên kiến thức chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học.
- Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở như là kiến thức của bài học.
+ Trước khi kết luận nên yêu cầu một vài ý kiến của học sinh cho kết luận sau khi thực nghiệm.
+ Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại quan niệm ban đầu. Như vậy những quan niệm ban đầu sai lệch chính học sinh tự phát hiện ra và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động, những thay đổi giúp học sinh khắc sâu hơn, ghi nhớ lâu hơn.
Kết luận chung
Bộc lộ quan điểm ban đầu có thể thu thập từ trước đó (không nhất thiết phải bắt học sinh qua vẽ hình)
Tránh lập lại mẫu từng bước. Không nhất thiết phải theo 5 bước mà có thể chuyển đổi. Phải có sự thay đổi các bước trước, sau cho học sinh hứng thú
Hệ thống hoá kiến thức chính học sinh phải ghi lại.
GV là người tương tác, định hướng để học sinh đi đúng hướng.
Điều kiện áp dụng : Nắm được tinh thần của phương pháp, chỉ áp dụng dạy trong những bài có thể.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Hoàng Thanh
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)