Tai lieu tap huan
Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Hằng |
Ngày 07/05/2019 |
33
Chia sẻ tài liệu: tai lieu tap huan thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
Chuyên đề hè 1012
Môn: Ngữ văn
TẬP HUẤN
VỀ PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT
DẠY VÀ HỌC TÍCH CỰC
Tĩnh Gia, tháng 8 – 2012
PHẦN I
1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?
Phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDHTC được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
PPDHTC hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng PPDHTC nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động".
2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
- Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
5
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:
6
3. Phong cách học – Phong cách dạy trong PPDHTC
Vai trò của GV trong việc tổ chức dạy học
* Tổ chức lớp học:
- Trong lớp học
- Ngoài lớp học, ngoài thiên nhiên, …
* Thiết kế bài tập/nhiệm vụ đa dạng
- HS thực hiện bài tập/nhiệm vụ giống nhau
- Cùng thời điểm nhưng có nhiều bài tập khác nhau
- Theo vòng tròn
- Cá nhân
- Theo cặp
- Theo nhóm
* Tổ chức đánh giá trong khi học
- Tự đánh giá
- Đánh giá đồng đẳng, …
* GV là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục
Trách nhiệm - lương tâm của người thầy
- Có thái độ tích cực đối với HS
- Nhạy cảm
- Giáo dục theo khả năng/năng khiếu của HS
Đáp ứng sự đa dạng của dạy và học tích cực
- Hiểu rõ bản chất của dạy và học tích cực
- Khả năng áp dụng dạy và học tích cực
- Có thái độ coi trọng sự khác biệt của người học
Phần II
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
1. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề
Cách tiến hành dạy học đặt và giải quyết vấn đề
* Chọn nội dung phù hợp
- Trong thực tế dạy học, không phải nội dung nào cũng có thể làm nảy sinh tình huống có vấn đề và giải quyết vấn đề đặt ra. Do đó giáo viên cần căn cứ vào đặc điểm của phương pháp, dựa vào nội dung cụ thể để áp dụng phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề cho phù hợp.
* Thiết kế kế hoạch bài học
- Sau khi chọn được nội dung phù hợp, giáo viên thiết kế kế hoạch bài học, tổ chức các hoạt động dạy học sao cho phù hợp với đặc trưng phát huy được tính hiệu quả của phương pháp đặt và giải quyết vấn đề. Trong đó chú ý đến lựa chọn các mức độ cho phù hợp với nội dung và trình độ của học sinh.
Câu hỏi nêu vấn đề cần phải:
- Chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, đòi hỏi học sinh phải tư duy, huy động và vận dụng các kiến thức đã có (nghĩa là câu hỏi phản ánh được mối liên hệ bên trong giữa điều đã biết và điều chưa biết).
- Chứa đựng phương hướng giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm kiếm câu trả lời, tạo điều kiện làm xuất hiện giả thuyết, tạo điều kiện tìm ra được con đường giải quyết.
- Gây được cảm xúc mạnh đối với học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận thức liên quan tới vấn đề.
Giải quyết vấn đề
Sau khi phát hiện và nêu vấn đề cần giải quyết, cần tổ chức hướng dẫn để học sinh giải quyết vấn đề như sau:
Đề xuất các giả thuyết
Lập kế hoạch giải quyết vấn đề:
Tùy thuộc vào vấn đề cụ thể và mức độ phù hợp với năng lực, điều kiện cơ sở vật chất thiết bị và thời lượng dạy học, có thể xây dựng các giả thuyết về vấn đề đặt ra theo các hướng khác nhau và đề xuất cách kiểm tra giả thuyết đó.
Xây dựng kế hoạch để giải quyết vấn đề, có thể tìm cách thu thập các thông tin để trả lời cho vấn đề cần nghiên cứu bằng cách làm thí nghiệm, điều tra, phỏng vấn, tìm thông tin trên mạng hay các tài liệu sách báo có nội dung liên quan. Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm cùng tham gia thu thập, xử lí tổng hợp thông tin, báo cáo kết quả.
Thực hiện kế hoạch giả quyết vấn đề.
Học sinh tiến hành thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề xuất có sự hỗ trợ của giáo viên (nếu cần thiết).
2. Dạy học hợp tác
Thế nào là dạy học hợp tác?
- Ở nhiều môn học khác nhau, phương pháp dạy học hợp tác có một tên gọi khác nhau như: học tập hợp tác, học theo nhóm, thảo luận nhóm…
- Trong dạy học hợp tác, giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động trong những nhóm nhỏ để học sinh cùng thực hiện một nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất định. Trong nhóm, dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng, học sinh kết hợp giữa làm việc cá nhân,làm việc theo cặp, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ được giao.
- Những nhiệm vụ học tập giao cho học sinh cần phải khuyến khích sự phối hợp của các thành viên trong nhóm (nhóm trưởng, thư ký, người quản lí thời gian..). Cần hình thành thói quen học tập hợp tác cho học sinh.
- Trong học tập hợp tác, học sinh học cách chia sẻ, giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau, tăng cường sự tham gia và nâng cao hiệu quả học tập.
* Tổ chức dạy học hợp tác
Giáo viên nêu nhiệm vụ học tập hoặc nêu vấn đề cần tìm hiểu và phương pháp học tập cho toàn lớp.
Phân công nhóm học tập và bố trí vị trí hoạt động của nhóm phù hợp theo thiết kế: nhóm trưởng, thư kí và các thành viên. Tùy theo nhiệm vụ có thể có cách tổ chức khác nhau: cặp hai học sinh, nhóm ba học sinh hoặc nhóm đông hơn 4 – 8 học sinh…
Trong hoạt động nhóm, học sinh ngồi đối diện với nhau để tạo sự tương tác trong quá trình học tập, trành trường hợp chia hai dãy bàn một nhóm, học sinh bàn sau chỉ nhìn vào lưng của học sinh bàn trước.
Nên chú ý tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều có thể tham gia vai trò làm nhóm trưởng và thư kí qua các hoạt động để tạo cơ hội phát triển kĩ năng học tập và kĩ năng lãnh đạo điều khiển cho tất cả các học sinh.
Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm học sinh: có thể giao cho mỗi nhóm học sinh một nhiệm vụ riêng biệt trong gói nhiệm vụ chung hoặc tất cả các nhóm đều cùng thực hiện một nhiệm vụ. giáo viên cần nêu rõ thời gian thực hiện và yêu cầu rõ sản phẩm của mỗi nhóm.
Hướng dẫn hoạt động của nhóm học sinh: Nhóm trưởng điều khiển hoạt động nhóm: học sinh hoạt động cá nhân, theo cặp chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận, thống nhất kết quả chung của nhóm, thư ki ghi kết quả của nhóm, phân công đại diện trình bày kết quả trước lớp.
Giáo viên theo dõi, điều khiển, hướng dẫn hỗ trợ các nhóm. Khi học sinh hoạt động nhóm, có rất nhiều vấn đề có thể xảy ra, nhất là khi học sinh tiến hành thí nghiệm hoặc quan sát băng hình, giải quyết vấn đề… Do đó giáo viên cần quan sát bao quát, đi tới các nhóm để hướng dẫn, hỗ trợ học sinh. Khi học sinh thảo luận không đi vào trọng tâm hoặc tranh luận thiếu hợp tác thì rất cần có sự hỗ trợ, can thiệp kịp thời của giáo viên để định hướng điểu chỉnh hoạt động của nhóm.
Tổ chức học sinh báo cáo kết quả và đánh giá:giáo viên yêu cầu mỗi nhóm sẽ hoàn thiện kết quả của mỗi nhóm và cử đại diện nhóm báo cáo kết quả, chia sẻ kinh nghiệm với nhóm khác, yêu cầu học sinh khác lắng nghe, nhật xét, bổ sung. Giáo viên hướng dẫn học sinh lắng nghe và phản hồi tích cực.
Sau khi học sinh nhận xét, phản hồi, giáo viên chốt lại kiến thức cơ bản,tránh tình trạng giáo viên giảng lại toàn bộ các vấn đề học sinh đã trình bày làm mất thời gian.
MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
Một số kĩ thuật DH mang tính hợp tác
1. Kĩ thuật đặt câu hỏi
2. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”
3. Kĩ thuật “Các mảnh ghép”
4. Sơ đồ KWL
5. Sơ đồ tư duy
1. Kĩ thuật đặt câu hỏi
Trong dạy học, hệ thống câu hỏi của giáo viên có vai trò quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của học sinh. Thay cho việc thuyết trình, đọc, chép, nhồi nhét kiến thức, giáo viên chuẩn bị hệ thống các câu hỏi để học sinh suy nghĩ phát hiện kiến thức, phát triển nội dung bài học, đồng thời khuyến khích học sinh động não tham gia thảo luận xoay quanh những ý tưởng/nội dung trọng tâm của bài học theo trật tự logic. Hệ thống câu hỏi còn nhằm định hướng, dẫn dắt cho học sinh từng bước phát hiện ra bản chất sự vật, quy luật hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham hiểu biết. Trong quá trình đàm thoại, giáo viên là người tổ chức, học sinh chủ động tìm tòi sáng tạo, phát hiện kiến thức mới. đồng thời qua đó học sinh có được niềm vui, hứng thú của người khám phá và tự tin khi thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình. Kết quả là học sinh vừa lĩnh hội được kiến thức mới đồng thời biết được cách thức đi đến kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Việc thiết kế hệ thống các câu hỏi theo các cấp độ tư duy như vậy rõ ràng mất nhiều thời gian hơn là thuyết trình giảng giải, nhưng nó có tác dụng khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy của học sinh.
Trong quá trình dạy học có 2 loại câu hỏi thường được sữ dụng đó là :
a, Câu hỏi đóng
Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi chỉ có một câu trả lời duy nhất đúng/sai hoặc chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”.
Câu hỏi này được sử dụng chủ yếu trong đánh giá kiến thức đã có, đánh giá mức độ ghi nhớ thông tin, trong các trường hợp cần trả lời chính xác, cụ thể, không đòi hỏi tư duy nhiều.
Câu hỏi đóng thường được dùng trong phần kết luận bài hoặc cuối phần giới thiệu bài để kiểm tra xem học sinh đã hiểu nhiệm vụ và những hướng dẫn cần thực hiện trong phần phát triển bài hay chưa.
Ví dụ: Hôm qua em có làm bài tập về nhà không?
- Hoặc: Em có thể giúp bạn làm tốt bài tập này không?
Câu hỏi đóng ít được sử dụng trong các trao đổi, thảo luận nhằm chia sẻ th«ng tin hoặc phát triển tư duy của học sinh.
Một số câu hỏi đóng hay bán mở không hữu ích khi trao đổi thảo luận trong giờ học:
a.1.Câu hỏi đóng đã hàm ý câu trả lời
ví dụ:
- Lần sau em có định làm việc cùng với Nam không?
- Từ giờ trở đi em sẽ học chăm hơn chứ?
->Với những câu hỏi này, học sinh chỉ có thể trả lời có hoặc không, không cần phải trình bày thêm, ít phải suy nghĩ. Điều giáo viên mong muốn đã được hàm ý sẵn trong câu hỏi. Câu hỏi đã có sẵn gợi ý câu trả lời.
a.2.Câu hỏi đóng mở đầu bằng giả định của người hỏi.
Ví dụ:
- Thầy/cô nghĩ em nên bắt đầu vào ngày mai. Em có đồng ý không?
- Thầy/cô nghĩ em nên nói rõ với Kim, hay là em muốn thầy/cô nói với bạn ấy?
->Loại câu hỏi này cũng bao hàm một gợi ý. Học sinh không có quyền tự do lựa chọn để đưa ra câu trả lời của mình.
- Câu hỏi “bán mở” là những câu hỏi đã chỉ rõ dạng câu trả lời mà người hỏi muốn người trả lời hướng theo gợi ý của mình.
- Giáo viên muốn có thông tin về ý kiến hoặc suy nghĩ của học sinh hoặc muốn tìm hiểu, kiểm tra kiến thức của học sinh thì cần sử dụng câu hỏi mở.
b .Câu hỏi mở
- Câu hỏi mở là dạng câu hỏi có nhiều cách trả lời. Khi đặt câu hỏi mở, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ ý kiến của cá nhân mình.Trong dạy học tích cực câu hỏi mở là dạng cậu hỏi chủ yếu được sữ dụng để phát huy tính tích cực của người học .
Một số dạng câu hỏi mở:
- Câu hỏi lấy thông tin giúp học sinh có cái nhìn tổng quan hoặc đưa ra những băn khoăn về tình huống hiện tại.
Ví dụ: khi nào…? Cái gì…? Cái nào…? ở đâu…?đến đâu…? Để làm gì?
Lưu ý rằng, khi lấy thông tin, câu hỏi “vì sao” không thích hợp vì câu trả lời thường mang tính chất phán xét. Nếu muốn biết lí do của một vấn đề nên hỏi: “Động lực nào..?” hoặc “Điều gì khiến…?”
- Câu hỏi giả định giúp học sinh suy nghĩ vượt khỏi khuôn khổ của tình huống hiện tại.
Ví dụ: Điều gì nếu…? Điều gì sẽ xảy ra nếu…? hãy tưởng tượng… chúng ta có thể tưởng tượng rằng… Việc tìm kiếm các giải pháp thay thế có ý nghĩa không?
- Câu hỏi ý kiến được sử dụng để khai thác suy nghĩ của học sinh về một chủ đề nào đó.
Ví dụ: Em nghĩ gì về điều này? Ý kiến của em về…
- Câu hỏi về cảm giác được dùng để khuyến khích học sinh phân tích bản thân và các cảm giác về một tình huống cụ thể.
Ví dụ: em đã trải qua cảm giác gì..? cảm giác của em về..?
-Câu hỏi về hành động giúp học sinh lập kế hoạch và triển khai các ý tưởng vào tình huống thực tế.
Ví dụ: Em chuẩn bị làm gì? Khi nào em sẽ…? Những khó khăn em sẽ gặp phải khi…? Em cần sự trợ giúp nào? Liệu đây có phải câu trả lời cho vấn đề này…? Em có thể dự đoàn phần trăm…? Có những số nào là số lẻ?...
Kỹ thuật đặt câu hỏi mở.
Một người giáo viên giỏi thường đưa ra câu hỏi mở phù hợp
-Khởi đầu một cuộc hội thoại.
- Một câu hỏi mở bắt đầu bằng các từ : ai? Khi nào?Cái gì? Như thế nào? ở đâu… thì câu trả lời không thể là “có” hoặc “không”. Đôi khi học sinh chỉ đưa ra câu trả lời gồm một từ, tuy nhiên bằng cách này, giáo viên đang khuyến khích học sinh đưa ra câu trả lời có độ dài ít nhất một câu.
- Nhận định không phải cơ sở của cuộc hội thoại tốt. Không nên bắt đầu câu hỏi mở bằng “tại sao”. “Tại sao” hàm ý một nhận định. Khi đặt câu hỏi “tại sao em không nói với cô?”, thông điệp mà giáo viên muốn đưa ra là: lẽ ra cô có thể giúp em tránh khỏi tình huống đáng buồn này. Khi giáo viên hỏi “tại sao em lại làm theo cách đó?”, thông điệp đưa ra là em không biết rằng cách làm đó không hiệu quả hay sao? Cho dù giáo viên cố gắng tránh đưa ra nhận định, các câu hỏi bắt đầu bằng “tại sao” đã có hàm ý như vậy. Đó là lí do giáo viên nên tránh những câu hỏi bắt đầu bằng “tại sao”. Tuy nhiên, nếu giáo viên vẫn muốn tìm ra động cơ của hành vi của học sinh thì có thể chuyển câu hỏi theo cách khác: “điều gì đã khiến em quyết định làm việc đó…” hoặc “em muốn đưa ra những lý do gì cho việc…”
2. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”
Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS, phát triển mô hình có sự tương tác giữa các HS.
Gồm có 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn HS hoạt động độc lập.
+ Giai đoạn HS hoạt động tương tác.
Ý kiến chung của cả nhóm về chủ đề
22
Cách tiến hành kĩ thuật “khăn phủ bàn”
Hoạt động theo nhóm (4 người /nhóm)
Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa
Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,…)
Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về một chủ đề...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
Khi mọi người đều đã xong, chia sẻ và thảo luận các câu trả lời
Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn phủ bàn
KĨ THUẬT KHĂN PHỦ BÀN
cã thÓ ¸p dông trong tÊt c¶ bµi häc, m«n häc, cÊp häc. DÆc biÖt trong m«n Ngu van chóng ta cã thÓ ¸p dông kÜ thuËt nµy trong viÖc t×m hiÓu ý nghÜa bµi häc, gi¸ trÞ hoÆc ý nghÜa cña c¸c chi tiÕt trong t¸c phÈm
VÝ dô: Văn bản : THÁNH GIÓNG ( lớp 6)
Ý kiến thống nhất sau khi thảo luận :
- Là người có công đánh giặc nhưng Gióng không hề màng danh lợi. Người Việt Nam sẵn sàng cống hiến khi đất nước cần, không đòi hỏi quyền lợi.
- Việc đánh giặc giữ nước của nhân dân ta được trời đất ủng hộ.
Vấn đề : Chi tiết Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời có ý nghĩa gì ?
25
3. Kĩ thuật “ Mảnh ghép”
Tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp
Kkích thích sự tham gia tích cực của HS
Nnâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ nhận thức hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2).
T¨ng cêng tÝnh ®éc lËp, tr¸ch nhiÖm häc tËp cña mçi c¸ nh©n.
26
Vòng 1
Vòng 2
1
1
1
1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
Cách tiến hành kĩ thuật “Mảnh ghép”
VÒNG 1
- Hoạt động theo nhóm 3 hoặc 4 người, ….
- Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ (Ví dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C, …)
- Đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao
- Mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm
VÒNG 2
- Hình thành nhóm 3 hoặc 4 người mới (1 người từ nhóm 1, 1 người từ nhóm 2 và 1 người từ nhóm 3 …)
- Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau
- Sau khi chia sẻ thông tin vòng 1, nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa thành lập để giải quyết
- Các nhóm mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ ở vòng 2
27
Thiết kế nhiệm vụ “Mảnh ghép”
hợp (kiến thức, kĩ năng, thông tin, chiến lược)
Xác định các nhiệm vụ mang tính chuẩn bị (thực hiện ở vòng - Lựa chọn nội dung/chủ đề phù hợp
- Xác định một nhiệm vụ phức hợp để giải quyết ở vòng 2 dựa trên kết quả các nhiệm vụ khác nhau đã được thực hiện ở vòng 1
Xác định những yếu tố cần thiết để giải quyết nhiệm vụ phức 1). Xác định các yếu tố hỗ trợ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2
28
Thành viên và nhiệm vụ các thành viên trong nhóm
29
Viết phần mở bài
Vòng 1
Vòng 2
1
1
1
1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
Dàn ý phần thân bài
Viết phần kết bài
Lập dàn ý hoàn chỉnh
Kĩ thuật " Mảnh ghép" áp dụng cho các tiết luyện tập làm van
4. Sơ đồ KWL
Là kỹ thuật học tạo điều kiện cho người học nêu được những điều đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết về chủ đề trước khi học và những điều đã học được sau khi học.
31
Sơ đồ KWL
Chủ đề/Bài học:
Tên người học/nhóm:
Ngày học:
32
Ví dụ về sơ đồ KWL
Chủ đề: NÐt tiªu biÓu trong th¬ sau C¸ch m¹ng th¸ng T¸m – 1945
( TiÕt 127- ¤n tËp vÒ th¬ - Líp 9)
Tên: Nguyễn Thị Thịnh và Trần Hồng Hoa
Ngày :20/01/2012
33
5. “Sơ đồ tư duy”
Là kĩ thuật DH nhằm tổ chức và phát triển tư duy, giúp người học chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả:
+ Mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng
+ Bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng.
Sơ đồ tư duy giúp gì cho bạn?
- Sáng tạo hơn
Tiết kiệm thời gian
Ghi nhớ tốt hơn
Nhìn thấy bức tranh tổng thể
Tổ chức và phân loại
2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Ví dụ : Khi dạy bài “Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống”(Tiết 99), sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “NGHỊ LUẬN SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG” lên bảng, rồi bắt đầu tiết học với mục Tìm hiểu bài. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ nhất, ghi tiêu đề “I. TÌM HIỂU BÀI”. Sau đó, cho học sinh đọc văn bản “Bệnh lề mề” – SGK, giáo viên đưa ra các câu hỏi dẫn dắt các em lần lượt tìm hiểu: vấn đề nghị luận của bài viết, biểu hiện, nguyên nhân, tác hại, hướng khắc phục. Sau khi tìm hiểu xong văn bản, giáo viên chuyển sang bước hai: hình thành kiến thức. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ hai, ghi tiêu đề “II. BÀI HỌC”. Rồi dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt, phát triển các nhánh con: khái niệm, yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức...tương tự như ở bước trên. Cuối cùng là bước thứ ba “Luyện tập”, cách làm như trên. Kết thúc tiết dạy, ta có SĐTD trên bảng đen như sau:
† Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Ví dụ: Em hãy lập SĐTD trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Nguyễn Du (Tên hiệu, xuất thân, thời đại, cuộc đời, sự nghiệp văn học?)
5. Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức:
Ví dụ 1: Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ II (Tiết 139,140) như sau:
GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG MÔN NGỮ VĂN
Tích hợp thể hiện ở 3 mức độ
- Mức độ toàn phần ( Văn bản Nhật dụng)
Mức độ bộ phận
Mức độ Liên hệ.
GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG MÔN NGỮ VĂN
Chỉ tích hợp bài nào có nội dung thật sự liên quan đến môi trường mà không gượng ép.
Tích hợp để đảm bảo nội dung môn học.
Không bài soạn nào trực tiếp về môi trường mà chỉ soạn tích hợp.
Môn: Ngữ văn
TẬP HUẤN
VỀ PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT
DẠY VÀ HỌC TÍCH CỰC
Tĩnh Gia, tháng 8 – 2012
PHẦN I
1. Phương pháp dạy học tích cực là gì?
Phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDHTC được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
PPDHTC hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng PPDHTC nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động".
2. Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
- Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
5
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:
6
3. Phong cách học – Phong cách dạy trong PPDHTC
Vai trò của GV trong việc tổ chức dạy học
* Tổ chức lớp học:
- Trong lớp học
- Ngoài lớp học, ngoài thiên nhiên, …
* Thiết kế bài tập/nhiệm vụ đa dạng
- HS thực hiện bài tập/nhiệm vụ giống nhau
- Cùng thời điểm nhưng có nhiều bài tập khác nhau
- Theo vòng tròn
- Cá nhân
- Theo cặp
- Theo nhóm
* Tổ chức đánh giá trong khi học
- Tự đánh giá
- Đánh giá đồng đẳng, …
* GV là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục
Trách nhiệm - lương tâm của người thầy
- Có thái độ tích cực đối với HS
- Nhạy cảm
- Giáo dục theo khả năng/năng khiếu của HS
Đáp ứng sự đa dạng của dạy và học tích cực
- Hiểu rõ bản chất của dạy và học tích cực
- Khả năng áp dụng dạy và học tích cực
- Có thái độ coi trọng sự khác biệt của người học
Phần II
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
1. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề
Cách tiến hành dạy học đặt và giải quyết vấn đề
* Chọn nội dung phù hợp
- Trong thực tế dạy học, không phải nội dung nào cũng có thể làm nảy sinh tình huống có vấn đề và giải quyết vấn đề đặt ra. Do đó giáo viên cần căn cứ vào đặc điểm của phương pháp, dựa vào nội dung cụ thể để áp dụng phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề cho phù hợp.
* Thiết kế kế hoạch bài học
- Sau khi chọn được nội dung phù hợp, giáo viên thiết kế kế hoạch bài học, tổ chức các hoạt động dạy học sao cho phù hợp với đặc trưng phát huy được tính hiệu quả của phương pháp đặt và giải quyết vấn đề. Trong đó chú ý đến lựa chọn các mức độ cho phù hợp với nội dung và trình độ của học sinh.
Câu hỏi nêu vấn đề cần phải:
- Chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, đòi hỏi học sinh phải tư duy, huy động và vận dụng các kiến thức đã có (nghĩa là câu hỏi phản ánh được mối liên hệ bên trong giữa điều đã biết và điều chưa biết).
- Chứa đựng phương hướng giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm kiếm câu trả lời, tạo điều kiện làm xuất hiện giả thuyết, tạo điều kiện tìm ra được con đường giải quyết.
- Gây được cảm xúc mạnh đối với học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận thức liên quan tới vấn đề.
Giải quyết vấn đề
Sau khi phát hiện và nêu vấn đề cần giải quyết, cần tổ chức hướng dẫn để học sinh giải quyết vấn đề như sau:
Đề xuất các giả thuyết
Lập kế hoạch giải quyết vấn đề:
Tùy thuộc vào vấn đề cụ thể và mức độ phù hợp với năng lực, điều kiện cơ sở vật chất thiết bị và thời lượng dạy học, có thể xây dựng các giả thuyết về vấn đề đặt ra theo các hướng khác nhau và đề xuất cách kiểm tra giả thuyết đó.
Xây dựng kế hoạch để giải quyết vấn đề, có thể tìm cách thu thập các thông tin để trả lời cho vấn đề cần nghiên cứu bằng cách làm thí nghiệm, điều tra, phỏng vấn, tìm thông tin trên mạng hay các tài liệu sách báo có nội dung liên quan. Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm cùng tham gia thu thập, xử lí tổng hợp thông tin, báo cáo kết quả.
Thực hiện kế hoạch giả quyết vấn đề.
Học sinh tiến hành thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề xuất có sự hỗ trợ của giáo viên (nếu cần thiết).
2. Dạy học hợp tác
Thế nào là dạy học hợp tác?
- Ở nhiều môn học khác nhau, phương pháp dạy học hợp tác có một tên gọi khác nhau như: học tập hợp tác, học theo nhóm, thảo luận nhóm…
- Trong dạy học hợp tác, giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động trong những nhóm nhỏ để học sinh cùng thực hiện một nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất định. Trong nhóm, dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng, học sinh kết hợp giữa làm việc cá nhân,làm việc theo cặp, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ được giao.
- Những nhiệm vụ học tập giao cho học sinh cần phải khuyến khích sự phối hợp của các thành viên trong nhóm (nhóm trưởng, thư ký, người quản lí thời gian..). Cần hình thành thói quen học tập hợp tác cho học sinh.
- Trong học tập hợp tác, học sinh học cách chia sẻ, giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau, tăng cường sự tham gia và nâng cao hiệu quả học tập.
* Tổ chức dạy học hợp tác
Giáo viên nêu nhiệm vụ học tập hoặc nêu vấn đề cần tìm hiểu và phương pháp học tập cho toàn lớp.
Phân công nhóm học tập và bố trí vị trí hoạt động của nhóm phù hợp theo thiết kế: nhóm trưởng, thư kí và các thành viên. Tùy theo nhiệm vụ có thể có cách tổ chức khác nhau: cặp hai học sinh, nhóm ba học sinh hoặc nhóm đông hơn 4 – 8 học sinh…
Trong hoạt động nhóm, học sinh ngồi đối diện với nhau để tạo sự tương tác trong quá trình học tập, trành trường hợp chia hai dãy bàn một nhóm, học sinh bàn sau chỉ nhìn vào lưng của học sinh bàn trước.
Nên chú ý tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều có thể tham gia vai trò làm nhóm trưởng và thư kí qua các hoạt động để tạo cơ hội phát triển kĩ năng học tập và kĩ năng lãnh đạo điều khiển cho tất cả các học sinh.
Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm học sinh: có thể giao cho mỗi nhóm học sinh một nhiệm vụ riêng biệt trong gói nhiệm vụ chung hoặc tất cả các nhóm đều cùng thực hiện một nhiệm vụ. giáo viên cần nêu rõ thời gian thực hiện và yêu cầu rõ sản phẩm của mỗi nhóm.
Hướng dẫn hoạt động của nhóm học sinh: Nhóm trưởng điều khiển hoạt động nhóm: học sinh hoạt động cá nhân, theo cặp chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận, thống nhất kết quả chung của nhóm, thư ki ghi kết quả của nhóm, phân công đại diện trình bày kết quả trước lớp.
Giáo viên theo dõi, điều khiển, hướng dẫn hỗ trợ các nhóm. Khi học sinh hoạt động nhóm, có rất nhiều vấn đề có thể xảy ra, nhất là khi học sinh tiến hành thí nghiệm hoặc quan sát băng hình, giải quyết vấn đề… Do đó giáo viên cần quan sát bao quát, đi tới các nhóm để hướng dẫn, hỗ trợ học sinh. Khi học sinh thảo luận không đi vào trọng tâm hoặc tranh luận thiếu hợp tác thì rất cần có sự hỗ trợ, can thiệp kịp thời của giáo viên để định hướng điểu chỉnh hoạt động của nhóm.
Tổ chức học sinh báo cáo kết quả và đánh giá:giáo viên yêu cầu mỗi nhóm sẽ hoàn thiện kết quả của mỗi nhóm và cử đại diện nhóm báo cáo kết quả, chia sẻ kinh nghiệm với nhóm khác, yêu cầu học sinh khác lắng nghe, nhật xét, bổ sung. Giáo viên hướng dẫn học sinh lắng nghe và phản hồi tích cực.
Sau khi học sinh nhận xét, phản hồi, giáo viên chốt lại kiến thức cơ bản,tránh tình trạng giáo viên giảng lại toàn bộ các vấn đề học sinh đã trình bày làm mất thời gian.
MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
Một số kĩ thuật DH mang tính hợp tác
1. Kĩ thuật đặt câu hỏi
2. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”
3. Kĩ thuật “Các mảnh ghép”
4. Sơ đồ KWL
5. Sơ đồ tư duy
1. Kĩ thuật đặt câu hỏi
Trong dạy học, hệ thống câu hỏi của giáo viên có vai trò quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của học sinh. Thay cho việc thuyết trình, đọc, chép, nhồi nhét kiến thức, giáo viên chuẩn bị hệ thống các câu hỏi để học sinh suy nghĩ phát hiện kiến thức, phát triển nội dung bài học, đồng thời khuyến khích học sinh động não tham gia thảo luận xoay quanh những ý tưởng/nội dung trọng tâm của bài học theo trật tự logic. Hệ thống câu hỏi còn nhằm định hướng, dẫn dắt cho học sinh từng bước phát hiện ra bản chất sự vật, quy luật hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham hiểu biết. Trong quá trình đàm thoại, giáo viên là người tổ chức, học sinh chủ động tìm tòi sáng tạo, phát hiện kiến thức mới. đồng thời qua đó học sinh có được niềm vui, hứng thú của người khám phá và tự tin khi thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình. Kết quả là học sinh vừa lĩnh hội được kiến thức mới đồng thời biết được cách thức đi đến kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Việc thiết kế hệ thống các câu hỏi theo các cấp độ tư duy như vậy rõ ràng mất nhiều thời gian hơn là thuyết trình giảng giải, nhưng nó có tác dụng khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy của học sinh.
Trong quá trình dạy học có 2 loại câu hỏi thường được sữ dụng đó là :
a, Câu hỏi đóng
Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi chỉ có một câu trả lời duy nhất đúng/sai hoặc chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”.
Câu hỏi này được sử dụng chủ yếu trong đánh giá kiến thức đã có, đánh giá mức độ ghi nhớ thông tin, trong các trường hợp cần trả lời chính xác, cụ thể, không đòi hỏi tư duy nhiều.
Câu hỏi đóng thường được dùng trong phần kết luận bài hoặc cuối phần giới thiệu bài để kiểm tra xem học sinh đã hiểu nhiệm vụ và những hướng dẫn cần thực hiện trong phần phát triển bài hay chưa.
Ví dụ: Hôm qua em có làm bài tập về nhà không?
- Hoặc: Em có thể giúp bạn làm tốt bài tập này không?
Câu hỏi đóng ít được sử dụng trong các trao đổi, thảo luận nhằm chia sẻ th«ng tin hoặc phát triển tư duy của học sinh.
Một số câu hỏi đóng hay bán mở không hữu ích khi trao đổi thảo luận trong giờ học:
a.1.Câu hỏi đóng đã hàm ý câu trả lời
ví dụ:
- Lần sau em có định làm việc cùng với Nam không?
- Từ giờ trở đi em sẽ học chăm hơn chứ?
->Với những câu hỏi này, học sinh chỉ có thể trả lời có hoặc không, không cần phải trình bày thêm, ít phải suy nghĩ. Điều giáo viên mong muốn đã được hàm ý sẵn trong câu hỏi. Câu hỏi đã có sẵn gợi ý câu trả lời.
a.2.Câu hỏi đóng mở đầu bằng giả định của người hỏi.
Ví dụ:
- Thầy/cô nghĩ em nên bắt đầu vào ngày mai. Em có đồng ý không?
- Thầy/cô nghĩ em nên nói rõ với Kim, hay là em muốn thầy/cô nói với bạn ấy?
->Loại câu hỏi này cũng bao hàm một gợi ý. Học sinh không có quyền tự do lựa chọn để đưa ra câu trả lời của mình.
- Câu hỏi “bán mở” là những câu hỏi đã chỉ rõ dạng câu trả lời mà người hỏi muốn người trả lời hướng theo gợi ý của mình.
- Giáo viên muốn có thông tin về ý kiến hoặc suy nghĩ của học sinh hoặc muốn tìm hiểu, kiểm tra kiến thức của học sinh thì cần sử dụng câu hỏi mở.
b .Câu hỏi mở
- Câu hỏi mở là dạng câu hỏi có nhiều cách trả lời. Khi đặt câu hỏi mở, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh chia sẻ ý kiến của cá nhân mình.Trong dạy học tích cực câu hỏi mở là dạng cậu hỏi chủ yếu được sữ dụng để phát huy tính tích cực của người học .
Một số dạng câu hỏi mở:
- Câu hỏi lấy thông tin giúp học sinh có cái nhìn tổng quan hoặc đưa ra những băn khoăn về tình huống hiện tại.
Ví dụ: khi nào…? Cái gì…? Cái nào…? ở đâu…?đến đâu…? Để làm gì?
Lưu ý rằng, khi lấy thông tin, câu hỏi “vì sao” không thích hợp vì câu trả lời thường mang tính chất phán xét. Nếu muốn biết lí do của một vấn đề nên hỏi: “Động lực nào..?” hoặc “Điều gì khiến…?”
- Câu hỏi giả định giúp học sinh suy nghĩ vượt khỏi khuôn khổ của tình huống hiện tại.
Ví dụ: Điều gì nếu…? Điều gì sẽ xảy ra nếu…? hãy tưởng tượng… chúng ta có thể tưởng tượng rằng… Việc tìm kiếm các giải pháp thay thế có ý nghĩa không?
- Câu hỏi ý kiến được sử dụng để khai thác suy nghĩ của học sinh về một chủ đề nào đó.
Ví dụ: Em nghĩ gì về điều này? Ý kiến của em về…
- Câu hỏi về cảm giác được dùng để khuyến khích học sinh phân tích bản thân và các cảm giác về một tình huống cụ thể.
Ví dụ: em đã trải qua cảm giác gì..? cảm giác của em về..?
-Câu hỏi về hành động giúp học sinh lập kế hoạch và triển khai các ý tưởng vào tình huống thực tế.
Ví dụ: Em chuẩn bị làm gì? Khi nào em sẽ…? Những khó khăn em sẽ gặp phải khi…? Em cần sự trợ giúp nào? Liệu đây có phải câu trả lời cho vấn đề này…? Em có thể dự đoàn phần trăm…? Có những số nào là số lẻ?...
Kỹ thuật đặt câu hỏi mở.
Một người giáo viên giỏi thường đưa ra câu hỏi mở phù hợp
-Khởi đầu một cuộc hội thoại.
- Một câu hỏi mở bắt đầu bằng các từ : ai? Khi nào?Cái gì? Như thế nào? ở đâu… thì câu trả lời không thể là “có” hoặc “không”. Đôi khi học sinh chỉ đưa ra câu trả lời gồm một từ, tuy nhiên bằng cách này, giáo viên đang khuyến khích học sinh đưa ra câu trả lời có độ dài ít nhất một câu.
- Nhận định không phải cơ sở của cuộc hội thoại tốt. Không nên bắt đầu câu hỏi mở bằng “tại sao”. “Tại sao” hàm ý một nhận định. Khi đặt câu hỏi “tại sao em không nói với cô?”, thông điệp mà giáo viên muốn đưa ra là: lẽ ra cô có thể giúp em tránh khỏi tình huống đáng buồn này. Khi giáo viên hỏi “tại sao em lại làm theo cách đó?”, thông điệp đưa ra là em không biết rằng cách làm đó không hiệu quả hay sao? Cho dù giáo viên cố gắng tránh đưa ra nhận định, các câu hỏi bắt đầu bằng “tại sao” đã có hàm ý như vậy. Đó là lí do giáo viên nên tránh những câu hỏi bắt đầu bằng “tại sao”. Tuy nhiên, nếu giáo viên vẫn muốn tìm ra động cơ của hành vi của học sinh thì có thể chuyển câu hỏi theo cách khác: “điều gì đã khiến em quyết định làm việc đó…” hoặc “em muốn đưa ra những lý do gì cho việc…”
2. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”
Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS, phát triển mô hình có sự tương tác giữa các HS.
Gồm có 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn HS hoạt động độc lập.
+ Giai đoạn HS hoạt động tương tác.
Ý kiến chung của cả nhóm về chủ đề
22
Cách tiến hành kĩ thuật “khăn phủ bàn”
Hoạt động theo nhóm (4 người /nhóm)
Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa
Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,…)
Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về một chủ đề...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
Khi mọi người đều đã xong, chia sẻ và thảo luận các câu trả lời
Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn phủ bàn
KĨ THUẬT KHĂN PHỦ BÀN
cã thÓ ¸p dông trong tÊt c¶ bµi häc, m«n häc, cÊp häc. DÆc biÖt trong m«n Ngu van chóng ta cã thÓ ¸p dông kÜ thuËt nµy trong viÖc t×m hiÓu ý nghÜa bµi häc, gi¸ trÞ hoÆc ý nghÜa cña c¸c chi tiÕt trong t¸c phÈm
VÝ dô: Văn bản : THÁNH GIÓNG ( lớp 6)
Ý kiến thống nhất sau khi thảo luận :
- Là người có công đánh giặc nhưng Gióng không hề màng danh lợi. Người Việt Nam sẵn sàng cống hiến khi đất nước cần, không đòi hỏi quyền lợi.
- Việc đánh giặc giữ nước của nhân dân ta được trời đất ủng hộ.
Vấn đề : Chi tiết Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời có ý nghĩa gì ?
25
3. Kĩ thuật “ Mảnh ghép”
Tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp
Kkích thích sự tham gia tích cực của HS
Nnâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ nhận thức hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2).
T¨ng cêng tÝnh ®éc lËp, tr¸ch nhiÖm häc tËp cña mçi c¸ nh©n.
26
Vòng 1
Vòng 2
1
1
1
1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
Cách tiến hành kĩ thuật “Mảnh ghép”
VÒNG 1
- Hoạt động theo nhóm 3 hoặc 4 người, ….
- Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ (Ví dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C, …)
- Đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao
- Mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm
VÒNG 2
- Hình thành nhóm 3 hoặc 4 người mới (1 người từ nhóm 1, 1 người từ nhóm 2 và 1 người từ nhóm 3 …)
- Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau
- Sau khi chia sẻ thông tin vòng 1, nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa thành lập để giải quyết
- Các nhóm mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ ở vòng 2
27
Thiết kế nhiệm vụ “Mảnh ghép”
hợp (kiến thức, kĩ năng, thông tin, chiến lược)
Xác định các nhiệm vụ mang tính chuẩn bị (thực hiện ở vòng - Lựa chọn nội dung/chủ đề phù hợp
- Xác định một nhiệm vụ phức hợp để giải quyết ở vòng 2 dựa trên kết quả các nhiệm vụ khác nhau đã được thực hiện ở vòng 1
Xác định những yếu tố cần thiết để giải quyết nhiệm vụ phức 1). Xác định các yếu tố hỗ trợ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2
28
Thành viên và nhiệm vụ các thành viên trong nhóm
29
Viết phần mở bài
Vòng 1
Vòng 2
1
1
1
1
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
3
3
3
3
Dàn ý phần thân bài
Viết phần kết bài
Lập dàn ý hoàn chỉnh
Kĩ thuật " Mảnh ghép" áp dụng cho các tiết luyện tập làm van
4. Sơ đồ KWL
Là kỹ thuật học tạo điều kiện cho người học nêu được những điều đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết về chủ đề trước khi học và những điều đã học được sau khi học.
31
Sơ đồ KWL
Chủ đề/Bài học:
Tên người học/nhóm:
Ngày học:
32
Ví dụ về sơ đồ KWL
Chủ đề: NÐt tiªu biÓu trong th¬ sau C¸ch m¹ng th¸ng T¸m – 1945
( TiÕt 127- ¤n tËp vÒ th¬ - Líp 9)
Tên: Nguyễn Thị Thịnh và Trần Hồng Hoa
Ngày :20/01/2012
33
5. “Sơ đồ tư duy”
Là kĩ thuật DH nhằm tổ chức và phát triển tư duy, giúp người học chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả:
+ Mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng
+ Bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng.
Sơ đồ tư duy giúp gì cho bạn?
- Sáng tạo hơn
Tiết kiệm thời gian
Ghi nhớ tốt hơn
Nhìn thấy bức tranh tổng thể
Tổ chức và phân loại
2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Ví dụ : Khi dạy bài “Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống”(Tiết 99), sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “NGHỊ LUẬN SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG” lên bảng, rồi bắt đầu tiết học với mục Tìm hiểu bài. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ nhất, ghi tiêu đề “I. TÌM HIỂU BÀI”. Sau đó, cho học sinh đọc văn bản “Bệnh lề mề” – SGK, giáo viên đưa ra các câu hỏi dẫn dắt các em lần lượt tìm hiểu: vấn đề nghị luận của bài viết, biểu hiện, nguyên nhân, tác hại, hướng khắc phục. Sau khi tìm hiểu xong văn bản, giáo viên chuyển sang bước hai: hình thành kiến thức. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ hai, ghi tiêu đề “II. BÀI HỌC”. Rồi dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt, phát triển các nhánh con: khái niệm, yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức...tương tự như ở bước trên. Cuối cùng là bước thứ ba “Luyện tập”, cách làm như trên. Kết thúc tiết dạy, ta có SĐTD trên bảng đen như sau:
† Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Ví dụ: Em hãy lập SĐTD trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Nguyễn Du (Tên hiệu, xuất thân, thời đại, cuộc đời, sự nghiệp văn học?)
5. Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức:
Ví dụ 1: Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ II (Tiết 139,140) như sau:
GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG MÔN NGỮ VĂN
Tích hợp thể hiện ở 3 mức độ
- Mức độ toàn phần ( Văn bản Nhật dụng)
Mức độ bộ phận
Mức độ Liên hệ.
GIÁO DỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG MÔN NGỮ VĂN
Chỉ tích hợp bài nào có nội dung thật sự liên quan đến môi trường mà không gượng ép.
Tích hợp để đảm bảo nội dung môn học.
Không bài soạn nào trực tiếp về môi trường mà chỉ soạn tích hợp.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Thị Hằng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)