TÀI LIỆU TẬP HUẤN -3
Chia sẻ bởi Nguyễn Hoàng Minh |
Ngày 07/05/2019 |
25
Chia sẻ tài liệu: TÀI LIỆU TẬP HUẤN -3 thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
PHẦN THỨ BA
KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
I.GIỚI THIỆU NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC.
II/ HƯỚNG DẪN BIÊN SOẠN CÂU HỎI, BÀI TẬP GẮN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN.
III/ HƯỚNG DẪN BIÊN SOẠN CÂU HỎI, BÀI TẬP KiỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC CỦA CÁC CHỦ ĐỀ TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ HIỆN HÀNH.
VI/ XÂY DỰNG ĐỀ KIỂM TRA.
1. Giôùi thieäu nhöõng vaán ñeà chung
veà ñaùnh giaù theo ñònh höôùng naêng löïc.
2. Höôùng daãn bieân soaïn caâu hoûi, baøi taäp gaén vôùi ñôøi soáng thöïc tieãn.
I/ GIỚI THIỆU NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC
Theo quan điểm phát triển năng lực, đánh giá theo năng lực là việc đánh giá không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá mà chú trọng đến khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác: đánh giá năng lực là đánh giá KT,KN và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa (Leen pil, 2011)
1.KHÁI NIỆM ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC:
I/ GIỚI THIỆU NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC
KHÁI NIỆM ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC:
Hiện nay có hai hướng tiếp cận chính về đánh giá kết quả học tập:
- Đánh giá dựa theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông.
- Đánh giá dựa vào năng lực.
Cách đánh giá thứ nhất thiên về đánh giá mức độ tiếp nhận nội dung chương trình môn học; cách đánh giá thứ hai thiên về xác định các mức độ năng lực của cá nhân người học so với mục tiêu đặt ra của môn học.
Có thể so sánh hai hướng tiếp cận này trên một số phương diện sau: mục tiêu đánh giá, nội dung đánh giá, phương pháp đánh giá, phân tích và sử dụng kết quả đánh giá.
Như vậy so với cách tiếp cận đánh giá theo chuẩn KT, KN của môn học thì cách tiếp cận đánh giá theo hướng hình thành năng lực có một số nét khác biệt sau:
- Nếu đánh giá theo chuẩn KT, KN quan tâm đến thành tích chung của người học theo mức độ đạt được mục tiêu môn học thì đánh giá theo năng lực quan tâm nhiều hơn đến sự tiến bộ và khả năng của mỗi cá nhân được bộc lộ trong qúa trình học tập.
- Nếu đánh giá theo chuẩn KT, KN lấy căn cứ từ nội dung chương trình môn học thì đánh giá theo NL lấy kết quả đầu ra và các yêu cầu về năng lực của người học làm căn cứ đánh giá.
Do vậy nếu đánh giá theo chuẩn chú ý tới việc lựa chọn nội dung đánh giá phù hợp với các chuẩn KT-KN đã được quy định trong chương trình môn học thì đánh giá dựa theo năng lực chú ý đến các nội dung đánh giá mang tính tổng hợp, gắn với việc giải quyết các tình huống thực tiễn.
- Nếu đánh giá theo chuẩn nhằm đo được những yêu cầu cơ bản, tối thiểu về KT, KN trong nội dung môn học thì đánh giá dựa theo năng lực cần xác định các mức độ đo năng lực trên một dải tần rộng để có sự phân hóa chính xác và cụ thể năng lực của người học.
Nhìn từ sự so sánh này thì thấy hai hướng tiếp cận thực ra không phải là hai hướng riêng tách bạch mà thực chất có mối quan hệ qua lại với nhau bởi chúng đều gắn với nội dung chương trình môn học. Khi đánh giá theo hướng năng lực cũng vẫn phải căn cứ vào chuẩn KT-KN của môn học. Tuy nhiên do năng.
lực mang tính tổng hợp và tích hợp nên các chuẩn KT, KN cần được tổ hợp lại trong các mối quan hệ nhất quán để thể hiện được các năng lực của người học. Mặc khác, do chuẩn KT, KN của môn học là yêu cầu, mức độ tối thiểu, nên khi đánh giá theo năng lực cần căn cứ vào nội dung môn học để xác định được những mức năng lực theo chuẩn và cao hơn chuẩn để tạo được sự phân hóa, nhằm đo được khả năng và sự tiến bộ của tất cả các đối tượng người học.
BẢNG TÓM TẮT SO SÁNH CÁCH ĐÁNH GIÁ THEO KT-KN VÀ ĐÁNH GIÁ THEO NĂNG LỰC
BẢNG TÓM TẮT
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP NGỮ VĂN THEO NĂNG LỰC
Không có mâu thuẫn giữa ĐGNL và ĐG theo chuẩn KT-KN.
Không lấy việc kiểm tra KT-KN đã học làm trung tâm mà chú trọng khả năng vận dụng KT-KN trong những tình huống khác nhau.
Việc KTĐG hướng tới khả năng làm phong phú và mở rộng cuộc sống cá nhân của HS
Kết nối những vấn đề được học với thực tiễn cuộc sống (ngoài trường học).
Giúp HS có cơ hội bộc lộ quan điểm và cách cảm nhận cá nhân, phát triển tư duy sáng tạo.
2/ PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC:
2.1 Các phương pháp và hình thức đánh giá chung:
Đánh giá quá trình (thường xuyên):
- Đánh giá thường xuyên có thể thực hiện qua hình thức kiểm tra vấn đáp hoặc kiểm tra viết (thường gọi là kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút). Việc kiểm tra được tiến hành trong tất cả các thời điểm của tiết học (kiểm tra đầu giờ, giữa giờ hoặc cuối giờ)trong tất cả các hoạt động của tiến trình học tập (kiểm tra bài cũ, tìm hiểu bài mới, vận dụng kiến thức, củng cố bài học).
- KTTX cho phép đánh giá khả năng tiếp thu bài học đang diễn ra và những nội dung học tập có liên
quan đến bài học, giúp GV nhanh chóng nắm bắt tình hình học tập, trình độ nhận thức của HS mà có những điều chỉnh cần thiết cho việc giảng dạy tiếp theo. Việc kiểm tra miệng, 15 phút còn rèn cho HS năng lực giải quyết các vấn đề đặt ra một cách nhạy bén và nhanh gọn, đây cũng là một trong những đòi hỏi của xã hội hiện đại đối với mỗi con người.
b) Đánh giá tổng kết:
Đánh giá TK được thực hiện sau khi học xong một chương, một phần của chương trình hoặc sau một HK. Việc kiểm tra giúp GV và HS nhìn lại kết quả dạy và học sau những kì hạn nhất định, đánh giá trình độ HS nắm bắt một khối lượng KT, KN tương đối hệ thống, củng cố mở rộng những điều đã học, đặt cơ sở tiếp tục sang những phần học mới.
Khi biên soạn đề kiểm tra, GV cần lưu ý phân tích kĩ nội dung chương trình và SGK, xác định những kiến thức và KN trọng tâm của CT, của mạch nội dung vừa học để xây dựng ma trận và phân bố số điểm hợp lý.
Bài đánh giá TK nhằm đánh giá năng lực học tập tổng hợp, khả năng khái quát, hệ thống hóa kiến thức, năng lực trình bày diễn đạt một cách bài bản, rõ ràng, trong sáng. Để đạt được mục đích ĐG thì đòi hỏi đề KT phải đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đặt ra như: đánh giá năng lực của HS một cách toàn diện, khách quan, khoa học, phản ánh được đầy đủ bản chất và tính chất của môn học và phân hóa được trình độ của HS.
Bên cạnh việc phối hợp các loại hình kiểm tra để việc đánh giá được tiến hành liên tục, cũng cần tăng cường tính hiệu lực của các kết quả đánh giá khác nhau trong quá trình học tập môn Ngữ văn của HS như: làm bài tập nghiên cứu nhỏ, các bài luyện nói trước tập thể, tham gia vào các hoạt động ngữ văn…, đánh giá qua quan sát của GV cũng như sự tự nhận xét, tự đánh giá của chính HS, và cả những dự cảm,
dự đoán của GV để có thể phát hiện và bồi dưỡng những HS có năng khiếu. Hiện nay đã có những quy định về số điểm kiểm tra tối thiểu cho mỗi HS trong một HK, tuy nhiên nếu GV biết chú ý đúng mức đến tầm quan trọng của việc kiểm tra trong dạy và học thì hoàn toàn có thể chủ động trong việc xây dựng những câu hỏi kiểm tra để có thể đánh giá NL học tập của HS một cách cụ thể qua từng giờ học, bài học.
c) Đánh giá trên lớp học:
Đánh giá trên lớp học nhằm tạo ra được một môi trường học tập phù hợp để hỗ trợ trực tiếp việc dạy và học của HS, giúp cho việc lập kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch dạy học kịp thời, hiệu quả, làm căn cứ để sắp xếp HS vào các nhóm năng lực khác nhau, cung cấp những thông tin phản hồi nhanh chóng cho cha mẹ HS để phối hợp giáo dục HS.
Khi thực hiện đánh giá trên lớp học cần phối hợp các PP đánh giá khác nhau, giúp cho việc thu nhập các thông tin được phong phú. Chẳng hạn đánh giá bằng quan sát, trắc nghiệm, bài luận, hồ sơ học tập, đánh giá bằng nhận xét….Đặc biệt cần chú ý đến việc HS tự đánh giá trong quá trình học tập.
d) Đánh giá trên diện rộng:
Đánh giá trên diện rộng là đánh giá kết quả học tập của HS theo quy mô lớn, từ cấp quận/huyện, tỉnh/thành phố, vùng lãnh thổ, quốc gia, quốc tế(các kì thi quốc gia, quốc tế)
Đánh giá trên diện rộng nhằm cung cấp những thông tin đáng tin cậy cho các cơ quan quản lí nhà nước trong việc đưa ra những quyết định trong GD.
2.2 Một số hình thức biên soạn câu hỏi và đề kiểm tra trong môn Ngữ văn:
a) Kiểm tra miệng:
Theo cách hiểu trước đây, KTM chỉ là kiểm tra bài cũ đầu tiết học, với quan niệm đánh giá mới thì KTM được áp dụng rộng rãi trong đánh giá thường xuyên, được sử dụng ở mọi thời điểm của tiết học, từ kiểm tra bài cũ, tìm hiểu bài mới, luyện nghe, nói, đọc, viết trong giờ học.
Câu hỏi KTM cần phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, phù hợp với nhận thức của HS, có sự phân hóa cho những đối tượng trong lớp.
- Câu hỏi cần đặt ra được những “tình huống có vấn đề” để kích thích óc tư duy và sự phản xạ nhanh của HS.Đồng thời qua những câu hỏi khuyến khích HS.
bộc lộ những suy nghĩ của mình trong việc trả lời và trình bày ý kiến cá nhân ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hoàn toàn chính xác.
- Việc đánh giá kết quả trả lời của HS không đơn thuần chỉ là cho điểm. Trước khi cho điểm GV cần lưu ý sửa cho HS những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt
- Lưu ý: cần hướng tới sử dụng hình thức này trong các cấp độ đánh giá cao hơn (ví dụ thi vấn đáp trong đánh giá tổng kết) để có thể đo được các năng lực của HS một cách toàn diện, đặc biệt là KN nói.
b) Kiểm tra viết:
Kiểm tra viết không chỉ nhằm đánh giá kết quả học tập chung của lớp học mà còn đánh giá chất lượng học tập của mỗi HS, vì vậy trong đề KT nên có những câu
hỏi phân hóa trình độ HS. Thời gian để thực hiện một đề KT viết có thể là 15 phút, 45 phút, 90 phút hoặc hơn 90 phút(các đề thi có quy mô tương đối lớn).
Hiện nay trong hình thức KT viết có hai dạng thiết kế câu hỏi:
Là những câu hỏi yêu cầu HS phải trả lời bằng cách suy nghĩ và diễn đạt qua ngôn ngữ (nói và viết). Với hình thức KT này, không nên cho HS viết dài mà viết có giới hạn dung lượng, có cân nhắc suy nghĩ trong việc ra đề để GV có thể chấm cả ý lẫn lời văn. Cần chú ý ra các câu hỏi nhằm khai thác văn bản ở nhiều phương diện (cả về văn, TV, TLV) để thể hiện được yêu cầu tích hợp của CT. Trong câu hỏi / bài tập và đề tự luận, ngoài hình thức câu hỏi luận đề, GV có thể đa dạng hóa các cách ra đề khác như: tìm ý, đề xuất ý, viết đoạn văn (MB, kết luận, triển khai một ý của thân bài), tóm tắt văn bản, chữa câu, đoan,viết theo mẫu, theo gợi ý….
- Trong một bài kiểm tra tổng hợp thì việc phân bố thời lượng cũng như điểm số đối với các câu hỏi tự luận không thể dưới 50% tổng điểm toàn bài.
* Câu hỏi trắc nghiệm tự luận (cách nói thông thường hiện nay là tự luận):
* Câu hỏi trắc nghiệm khách quan (TNKQ)
Có nhiều dạng thức TNKQ, song hiện nay thường sử dụng 4 dạng thức sau:
- Câu nhiều lựa chon:
Đưa ra một nhận định hoặc một câu hỏi với các phương án trả lời ( thường là 4 lựa chọn). HS phải chọn, đánh dấu vào một phương án trả lời đúng hoặc đúng nhất, hoặc lựa chọn các phương án trả lời đúng trong nhiều phương án được đưa ra.
- Câu điền khuyết:
Đưa ra một mệnh đề có khuyết một bộ phận, yêu cầu HS phải chọn một hoặc một số trong những từ ngữ cho trước để điền vào chỗ trống hoặc tự tìm từ ngữ để điền vào chỗ trống
- Câu đúng- sai:
Đưa ra một nhận định, yêu cầu HS phải lựa chọn một trong hai phương án trả lời để khẳng định đó là đúng hoặc sai.
- Câu ghép đôi:
Yêu cầu HS phải ghép đúng các cặp từ, các phần của cột trái (A ) với cột phải ( B ) sao cho hợp nghĩa, hợp logic.
Theo định hướng về KT-ĐG của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, cần có sự kết hợp một cách hợp lí cả hai dạng TNKQ và TNTL. Đối với môn Ngữ văn THCS thì một trong những nội dung rất quan trọng mà việc đánh giá cần hướng tới là năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn học nghệ thuật một cách chủ động, tích cực của mỗi HS cũng như năng lực tư duy và giao tiếp bằng tiếng Việt. Những năng lực này chỉ có thể được bộc lộ qua việc tạo lập các văn bản (nói và viết).
MỘT SỐ YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ KĨ THUẬT BIÊN SOẠN CÂU HỎI KIỂM TRA
1.Câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn:
Chỉ có một phương án đúng.
Các phương án sai phải có vẻ hợp lí.
Nên dùng 4 hoặc 5 phương án để lựa chọn.
Đảm bảo cho các câu dẫn nối liền với mọi phương án chọn theo đúng ngữ pháp.
Tránh dùng câu phủ định, đặc biệt là câu phủ định hai lần.
Tránh lạm dụng kiểu”không phương án nào trên đây đúng” hoặc “mọi phương án trên đây đều đúng”.
Tránh việc tạo phương án đúng khác biệt so với các phương án khác ( dài hơn hoặc ngắn hơn, mô tả tỉ mỉ hơn…)
Phải sắp xếp phương án đúng theo thứ tự ngẫu nhiên.
MỘT SỐ YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ KĨ THUẬT BIÊN SOẠN CÂU HỎI KIỂM TRA
2. Loại câu hỏi TNKQ đúng – sai:
Câu phát biểu phải hoàn toàn đúng hoặc sai, không có ngoại lệ.
Soạn câu trả lời thật đơn giản.
Tránh dùng câu phủ định, đặc biệt là câu phủ định hai lần.
3. Loại câu hỏi TNKQ ghép đôi:
Hướng dẫn rõ về yêu cầu của việc ghép đôi cho phù hợp.
Cần đánh số ở một cột và chữ ở cột kia.
Các dòng trên mỗi cột phải tương đương về nội dung, hình thức, cấu trúc ngữ pháp, độ dài.
Tránh dùng các câu phủ định.
Tránh tạo nên việc ghép đôi theo kiểu một – một.
MỘT SỐ YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ KĨ THUẬT BIÊN SOẠN CÂU HỎI KIỂM TRA
4) Loại câu hỏi TNKQ điền khuyết:
Chỉ để một chỗ trống.
Thiết kế sao cho có thể trả lời bằng một từ đơn nhất mang tính đặc trưng (người, vật, địa điểm, thời gian, khái niệm…).
Cung cấp đủ thông tin để chọn từ trả lời chính xác.
Chỉ có một lựa chọn là đúng.
MỘT SỐ LƯU Ý KHI RA CÂU HỎI
TRẮC NGHIỆM TỰ LUẬN
Đảm bảo sao cho câu hỏi TNTL phù hợp với mục tiêu học tập.
Câu hỏi cần rõ ràng và xác định để HS hiểu rõ nhiệm vụ mà mình phải thực hiện.
Cần cho HS biết các tiêu chí được sử dụng để đánh giá bài luận.
Nên sử dụng những câu hỏi khuyến khích tư duy sáng tạo, bộc lộ óc phê phán và ý kiến cá nhân của HS.
Có thể cho giới hạn độ dài ( số từ hoặc số trang, dòng)
Đảm bảo đủ thời gian để HS làm bài khi ở lớp hoặc thời gian nộp bài khi làm ở nhà.
Khi ra đề tự luận có cấu trúc gồm nhiều câu, nên qui định tỷ lệ điểm cho mỗi phần, và khi chấm bài nên chấm điểm từng phần cho mọi HS.
2.3. Đánh giá kĩ năng đọc và viết trong môn Ngữ văn:
- Hiện nay, việc kiểm tra đánh giá năng lực đọc của HS thường diễn ra dưới hai hình thức: KTM (yêu cầu HS nhắc lại một nội dung nào đó của bài học đã ghi chép trong vở) và kiểm tra viết (viết về một vấn đề nào đó của Vb đã học). Hình thức này chưa đánh giá được năng lực đọc hiểu các loại Vb khác nhau của người học.
- Đổi mới KTĐG kĩ năng đọc hiểu (ĐH) của HS bằng việc đưa ra những VB mới (bao gồm cả VBVH và VBND, có cùng đề tài, chủ đề hoặc thể loại với VB đã học trong CT, SGK), yêu cầu HS vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã có vào việc đọc hiểu và cảm thụ VB mới này.
- Các câu hỏi KTĐG kĩ năng ĐH và cảm thụ nên được thiết kế theo cách làm của PISA (chương trình đánh giá HS quốc tế), bao gồm: câu hỏi mở yêu cầu trả lời ngắn; câu hỏi mở yêu cầu trả lời dài; câu hỏi đóng yêu cầu trả lời dựa trên những trả lời có sẵn; câu hỏi TNKQ nhiều lựa chọn; câu hỏi có-không; đúng – sai phức hợp.
a) Đánh giá kĩ năng đọc hiểu của học sinh:
Ví dụ: Câu hỏi kiểm tra kĩ năng đọc hiểu Vb của HS lớp 9 (dạng câu hỏi đúng – sai phức hợp).
Những thông tin sau đây về văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” đúng hay sai?
2.3. Đánh giá kĩ năng đọc và viết trong môn Ngữ văn:
KTĐG kĩ năng ĐH của HS phải được tiến hành thường xuyên trong các bài kiểm tra từ 1- 2 tiết, bài kiểm tra học kì, kiểm tra cuối năm.
b) Đánh giá kĩ năng viết của học sinh:
Đổi mới cách thức KTĐG kĩ năng viết của HS bằng cách ra đề theo hướng mở và tích hợp (trong môn và liên môn). Đề mở chấp nhận nhiều cách trả lời, thậm chí có những câu trả lời đối ngược nhau, miễn là HS bộc lộ được nhận thức và lập luận lôgic trong quá trình đi đến câu trả lời. Trong quá trình làm bài, HS cần vận dụng các kiến thức, KN của các phân môn tiếng Việt, Làm văn, Văn học cũng
như kiến thức liên môn(Lịch sử, Địa lí, GDCD…)để giải quyết vấn đề mà đề bài nêu ra. Đáp án không áp đặt nội dung trả lời mà nên nêu được các phương án mà HS có thể trình bày, phân tích được sự hợp lí của các phương án đó; đồng thời nêu được những yêu cầu về KN làm bài của HS, khuyến khích HS sử dụng nhiều KN, thao tác khác nhau trong giải quyết vấn đề, khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, quan điểm riêng của mình, chấp nhận nhiều cách hiểu và giải quyết vấn đề khác nhau, miễn là tư tưởng của người viết không đi ngược lại những chuẩn mực đạo đức và pháp luật mà xã hội quy định; khuyến khích HS vận dụng được những điều đã học vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra một cách có sức thuyết phục, hợp lí, tự nhiên, phù hợp với trình độ của các em.
Một số ví dụ:
1. Khi kiểm tra văn bản phần VHDG (lớp 6), ta có thể đặt câu hỏi (vận dụng cao) như sau:
Nếu em là Thạch Sanh, em có tha chết cho mẹ con Lý Thông không? Vì sao?
2. Khi hướng dẫn đọc thêm truyện cổ tích “Ông lão đánh cá và con cá vàng” có thể đặt câu hỏi:
Truyện cổ tích thường có cách kết thúc có hậu: người tốt được sống sung sướng, hạnh phúc, kẻ xấu xa, độc ác thì bị trừng phạt thích đáng. Truyện cổ tích “Ông lão đánh cá và con cá vàng kết thúc bằng cảnh: “…ông sửng sốt, lâu đài cung điện biến đâu mất; trước mắt ông lão lại thấy túp lều nát ngày xưa, và trên bậc cửa, mụ vợ đang ngồi trước cái máng lợn ăn sứt mẻ” . Em hiểu như thế nào về cách kết thúc này?
MỘT SỐ VÍ DỤ VỀ CÂU HỎI KIỂM TRA KĨ NĂNG
ĐỌC HIỂU VÀ VIẾT
LỚP 6
Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới
“Cảnh hừng đông mặt biển nguy nga, rực rỡ. Phía hai bên, những đám mây trắng hồng hầu như dựng đứng, hơi ngả xô về phía trước. Tất cả đều mời mọc lên đường.
Xa xa, mấy chiếc thuyền nữa cũng đang chạy ra khơi, cánh buồm lòng vút cong thon thả. Mảnh buồm nhỏ xíu phía sau nom như một con chim đang đỗ sau lái, cố rướn cao sắp cất lên tiếng hót. Nhìn từ xa, giữa cảnh mấy nước long lanh, mấy chiếc thuyền lưới làm ăn nhiều khi vất vả, trông như những con thuyền du ngoạn.
Gió càng lúc càng mạnh, sóng cuộn ào ào. Biển khi nổi sóng, trông càng lai láng, mênh mông. Thuyền chồm lên hụp xuống như nô giỡn. Sóng đập vào mũi thuyền thùm thùm, chiếc thuyền tựa hồ một tay võ sĩ can trường giơ ức ra chịu đấm, vẫn lao mình tới. Phía sau, chiếc thuyền bạn, trung thành và khăng khít, cũng đang lướt chồm trên sóng bám sát chúng tôi.”
(Trích “Bám biển”)
Câu 1: Cảnh hừng đông mặt biển là cảnh biển vào thời điểm nào?
Buổi sáng. B. Giữa trưa.
C. Buổi chiều. D. Đêm trăng.
Câu 2: Nội dung chính của đoạn trích là:
Miêu tả biển trong ngày giông bão.
B. Miêu tả biển ngày lặng gió.
C. Miêu tả cảnh những con thuyền ra khơi.
D. Miêu tả cảnh những con thuyền trở về.
Câu 3: Đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích trên là:
Sử dụng rộng rãi phép so sánh và các từ láy có ý nghĩa gợi tả.
B. Sử dụng nhiều từ Hán Việt tạo nên giọng điệu trang trọng.
C. Sử dụng nhiều kiểu câu trần thuật kết hợp với câu cảm thán.
D. Sử dụng nhiều phép ẩn dụ và hoán dụ.
Câu 4: Cảnh biển qua đoạn văn trên là bức tranh:
A.Mênh mông và dữ dội.
B. Duyên dáng và tĩnh lặng.
C. Mịt mùng và huyền ảo.
D. Dịu dàng và mềm mại.
Câu 5: Dòng nào sau đây không chứa từ Hán Việt?
Nguy nga, rực rỡ, nhỏ xíu, can trường.
B. Long lanh, vất vả, du ngoạn, ào ào, xa xa.
C. Khăng khít, thon thả, lai láng, mênh mông.
D. Thùm thùm, nô giỡn, trắng hồng, trung thành.
Câu 6: Từ “du ngoạn” có nghĩa là gì?
A. Công việc phiêu lưu, mạo hiểm.
B. Cuộc sống lênh đênh, trôi nổi.
C. Làm ăn vất vả, khó nhọc.
D. Rong ruổi vui chơi ở những nơi xa.
Câu 7: Câu văn nào sau đây không sử dụng phép so sánh?
Cảnh hừng đông mặt biển nguy nga, rực rỡ.
B. Mảnh buồm nhỏ xíu phía sau nom như một con chim đang đậu sau lái, cổ rướn cao sắp cất lên tiếng hót.
C. Sóng đập vào mũi thùm thùm, chiếc thuyền tựa hồ một tay võ sĩ can trường giơ ức ra chịu đấm, vẫn lao mình tới.
D. Thuyền chồm lên hụp xuống như nô giỡn.
Câu 8: Dòng nào sau đây chỉ chứa tính từ và cụm tính từ?
A.Cảnh hừng đông, những đám mây trắng hồng, sắp cất lên tiếng hót.
B. Càng mạnh, càng lai láng mênh mông, trắng hồng, nguy nga, rực rỡ.
C. Chiếc thuyền bạn, đang lướt chồm trên sóng, tay võ sĩ can trường.
D. Đang chạy ra khơi, mời mọc lên đường, cảnh mây nước long lanh.
Câu 9: Hình ảnh con thuyền tựa hồ một tay võ sĩ can trường giơ ức ra chịu đấm nói lên điều gì?
Sự dữ dội của biển cả.
B. Sự to lớn của con thuyền.
C. Sự mạnh mẽ can đảm của con người.
D. Hai ý A và B. E. Hai ý A và C.
Câu 10: Em hãy viết bài văn tả cảnh biển vào một ngày nắng đẹp hoặc một chiều mưa.
LỚP 7
(1)Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang
(2) Con người có cố, có ông
Như cây có cội, như sông có nguồn
(3) Anh em như chân với tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần
Câu 1: Các câu ca dao trên cùng viết về chủ đề nào?
Tình yêu quê hương B. Tình yêu nam nữ
C. Tình cảm bạn bè D. Tình cảm gia đình
Câu 2: Biện pháp tu từ nào cùng được sử dụng trong các câu ca dao trên?
Nhân hóa B. So sánh
C. Hoán dụ D. Ẩn dụ
Câu 3: Giải nghĩa các từ sau đây:
Cưu mang:……………………………………………………………………
Cố:……………………………………………………………………………
- Nguồn:…………………………………………………………………….
Câu 4: Viết đoạn văn nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu “nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”
Câu 5: Viết bài văn kể lại một câu chuyện có thật (mà em chứng kiến hoặc là người tham gia) có nội dung tượng tự câu ca dao:
“Anh em như chân với tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”.
LỚP 9
ĐOẠN VĂN 1:
“…Một anh thanh niên hai mươi bảy tuổi! Đây là đỉnh Yên Sơn, cao hai nghìn sáu trăm mét. Anh ta làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Cách đây bốn năm, có hôm tôi cũng đang đi thế này chợt thấy một khúc thân cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh thanh niên ở đâu chạy đến, hè với tôi và khách đi xe đẩy khúc cây ra một bên cho xe đi. Hỏi ở đây mà ai đẩy cây ra giữa đường thế này, anh chỉ đỏ mặt. Thì ra anh ta mới lên nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi. Bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh ta kiếm cớ dừng xe lại để gặp chúng tôi, nhìn trông và nói chuyện một lát”.
(Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long)
Câu 1: Những thông tin sau đây về văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” đúng hay sai?
Câu 2: Đoạn văn được trần thuật ở ngôi thứ mấy?
Ngôi thứ nhất. B. Ngôi thứ hai. C. Ngôi thứ ba.
Câu 3: Nội dung của đoạn văn trên là gì?
Miêu tả hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên.
B.Ngợi ca phẩm chất đẹp của anh thanh niên.
C. Ngợi ca phong cách sống đẹp của anh thanh niên.
D. Ca ngợi vẻ đẹp của những con người lao động thầm lặng trên Sa Pa.
Câu 4: Giả sử một ngày nào đó em được lựa chọn: một là đi làm công việc yêu thích trên một đỉnh núi hiu quạnh, suốt năm tháng chỉ làm bạn với mây mù và hoa cỏ; hoặc là em làm một công việc không yêu thích nhưng lại ở ngay thành phố. Em sẽ lựa chọn như thế nào?
Câu 5: Kể tên một văn bản trong chương trình Ngữ văn 9 cũng được viết vào giai đoạn lịch sử giống như “Lặng lẽ Sa Pa”. Nêu ngắn gọn nội dung tác phẩm đó.
ĐOẠN VĂN 2:
“Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương cho đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người.”
(Đọc văn, học văn Trần Đình Sử)
Câu 1: Đoạn văn trên gợi cho em nhớ tới văn bản nào được học trong chương trình Ngữ văn 9?
A. Viếng lăng Bác B. Con cò
C. Sang thu D. Mùa xuân nho nhỏ
Câu 2: Nội dung của đoạn văn trên là gì?
A. Nêu hoàn cảnh sáng tác văn bản.
B. Nêu trình tự thời gian vào viếng lăng.
C. Nêu nội dung và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.
D. Nêu cảm xúc của tác giả.
Câu 3: Câu thơ “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi” đã sử dụng biện pháp tu từ nào?
A Ẩn dụ B. So sánh C. Nhân hóa D. Hoán dụ
Câu 4: Hãy kể tên một văn bản viết về Bác Hồ, nêu nội dung chính của văn bản đó?
Câu 5: Em đã một lần vào viếng lăng Bác. Hãy viết đoạn văn ghi lại lần trải nghiệm đó.
II/ HƯỚNG DẪN BIÊN SOẠN CÂU HỎI/ BÀI TẬP GẮN VỚI ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN
Trong môn học Ngữ văn, để hướng tới mục tiêu dạy học theo quan điểm giao tiếp, gắn với thực tiễn, có thể tăng cường những câu hỏi/bài tập mang tính tình huống, giúp HS phát huy được sự trải nghiệm của cá nhân, tạo hứng thú và hiệu quả học tập cho các giờ học. Có một số dạng câu hỏi, bài tập sau:
1. Xây dựng dự án học tập:
Các dự án học tập là một hình thức hoạt động nhằm giúp HS có thêm những trải nghiệm đối với các vấn đề được học tập, đồng thời phát huy khả năng hợp tác, sáng tạo của HS trong học tập. Dự án học tập được thực hiện đối với những nội dung học tập mang tính thực tiễn, gắn với cuộc sống và những vấn đề HS quan tâm và mong muốn giải quyết.
- Trong môn Ngữ văn, có thể yêu cầu HS xây dựng các dự án đối với một số nội dung học tập gắn với thực tiễn địa phương. Chẳng hạn để HS cảm nhận được rõ nét về vẻ đẹp của một miền đất cực nam của Tổ Quốc và sự sinh động trong việc quan sát, miêu tả của tác giả, đối với những HS ở vùng đất Cà Mau, GV có thể cho các em trải nghiệm “tập làm nhà văn” bằng cách xây dựng các dự án: tìm hiểu về vẻ đẹp của sông nước Cà Mau và tìm hiểu về chợ Năm Căn. GV chia HS theo các nhóm, mỗi nhóm xây dựng kế hoạch tìm hiểu về đối tượng, chọn điểm nhìn để quan sát, ghi chép, trao đổi để thống nhất lựa chọn chi tiết và sắp xếp các chi tiết đặc trưng của đối tượng, từ đó báo cáo sản phẩm (bằng ngôn ngữ hoặc hình ảnh).Khi đã được trải nghiệm về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng sông nước Cà Mau, HS sẽ có dịp so sánh với tác phẩm
của Đoàn Giỏi để có thêm những cảm nhận về văn bản, hình dung môt cách rõ nét về những hình ảnh được tái hiện trong văn bản, bổ sung những vẻ đẹp của thực tế cũng như những gì chưa được đẹp trong cuộc sống hôm nay, từ đó xác định những gì mình có thể làm để góp phần giữ gìn, bảo vệ cảnh sắc thiên nhiên và nếp sinh hoạt của cuộc sống quê hương.
- Dự án học tập có thể được thực hiện dưới dạng một nhiệm vụ mang tính giả định. Chẳng hạn với bài “Cây tre Việt Nam (Ngữ văn 6) có thể yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ sau:
Giả sử em phải giới thiệu cho du khách nước ngoài hoặc những người chưa biết về cây tre Việt Nam, em sẽ nói những gì? Hãy lập dàn ý ghi lại những ý chính em định trình bày và tập nói cho bạn bè hoặc những người thân trong gia đình cùng nghe.
Như vậy dựa vào đặc điểm của từng địa phương, chúng ta có thể áp dụng hình thức xây dựng dự án học tập này khi ra câu hỏi / bài tập cho HS.
- Ví dụ khi dạy bài “Cầu Long Biên- chứng nhân lịch sử”, chúng ta sẽ liên hệ tới những di tích lịch sử có ở địa phương để giao bài tập cho HS. Cụ thể ở huyện Tây Sơn, có thể cho HS trải nghiệm “tập làm hướng dẫn viên” bằng cách xây dựng dự án: tìm hiểu về di tích lịch sử Bảo tàng Quang Trung; hoặc yêu cầu HS thực hiện bài tập sau: giả sử em phải giới thiệu cho du khách ngước ngoài hoặc những người chưa biết về Bảo tàng Quang Trung, em sẽ nói những gì? Hãy lập dàn ý ghi lại những ý chính em định trình bày và tập nói cho bạn bè hoặc những người trong gia đình nghe.
Đối với những địa phương ở biển hoặc gần biển, khi dạy bài “Cô Tô” GV có thể giao nhiệm vụ tìm hiểu về vẻ đẹp của biển quê hương.
Ở lớp 7: những bài có thể Xây dựng dự án học tập như: Sài Gòn tôi yêu
( vẻ đẹp của quê hương); Ca Huế trên sông Hương ; Quan Âm Thị Kính…
( văn hóa dân gian ở địa phương)
Hoặc khi dạy bài “Động Phong Nha” (lớp 6), giao nhiệm vụ cho HS tìm hiểu về Hầm Hô – khu du lịch sinh tái, một danh lam thắng cảnh của huyện…
Lớp 8: bài Thông tin về ngày Trái đất năm 2000, Ôn dịch thuốc lá…(thực tế về bảo vệ môi trường)
Lớp 9: bài Bàn về đọc sách (thực tế về việc đọc sách hiện nay của HS, thanh niên…)
Như vậy có thể thấy rằng những VBND là những VB có nội dung học tập mang tính thực tiễn, gắn với cuộc sống, thuận lợi cho việc thiết kế dạng câu hỏi / bài tập theo hình thức Xây dựng dự án học tập
Một vấn đề đặt ra là GV sẽ kiểm tra việc thực hiện bài tập này của HS khi nào. Đó chính là các tiết Hoạt động Ngữ văn, Chương trình địa phương, Luyện nói...
2. Chuyển thể văn bản:
Có thể chuyển thể các văn bản hoặc một nội dung văn bản theo hình thức: vẽ tranh, sáng tác thơ, nhạc, đóng kịch…Hình thức chuyển thể văn bản tạo cho HS thêm các cơ hội để tiếp cận và trải nghiệm với văn bản. Với con người, cuộc sống, với những nhân vật mà các em yêu thích. Đồng thời phát huy năng lực cảm thụ thẩm mĩ, thưởng thức văn học của HS.
Ví dụ:
- Dạy văn bản “Mây và sóng” (Ngữ văn 9) có thể cho HS vẽ tranh về các sự việc, chi tiết trong văn bản mà các em yêu thích (ví dụ cảnh em bé trò chuyện với Mây, với Sóng; cảnh em bé cùng trò chơi với mẹ…)
- Dạy các văn bản truyện dân gian lớp 6, có thể cho HS đóng kịch (ví dụ như truyện cười Lợn cưới, áo mới; truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi…)
- Lớp 7: đóng kịch (kịch nói) “Quan Âm Thị Kính” hoặc tập hát chèo.
- Lớp 8: đóng kịch “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục”.
3. Xây dựng các tình huống giao tiếp:
Có thể đưa ra các tình huống giao tiếp giả định, yêu cầu HS vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học về hội thoại để xây dựng các hội thoại phù hợp, hoặc đưa ra các đoạn hội thoại để HS chỉ ra các yếu tố hội thoại (phương châm hội thoại, hành động nói)...giúp tăng cường khả năng giao tiếp cho người học.
Hình thức này có thể sử dụng rộng rãi khi dạy phần tiếng Việt ở các khối lớp 8 và 9.
4. Đọc hiểu các văn bản gắn với những tình huống đặt ra trong cuộc sống:
Các văn bản nhật dụng là các văn bản đề cập đến những vấn đề của thực tiễn đời sống, phù hợp với nhận thức của người học. Việc đưa ra các VBND nhằm tăng cường kiểm tra năng lực nhận thức về những giá trị sống của HS, gắn với những tình huống ứng xử của cuộc sống. Việc ra các VB này vừa đánh giá khả năng đọc hiểu của HS, vừa giúp HS làm giàu cảm xúc, tâm hồn mình, có kĩ năng sống tích cực.
Ví dụ:
Khi kiểm tra văn bản nhật dụng “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” (ngữ văn 6) có thể đặt câu hỏi:
Từ ý nghĩa của văn bản “Bức thư của người thủ lĩnh da đỏ”, em hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của mình (hoặc nêu suy nghĩ của mình) về thực trạng của môi trường thiên nhiên mà em đang sống và những việc mà chúng ta cần phải làm để bảo vệ môi trường trong cuộc sống hiện nay.
MỘT SỐ VÍ DỤ VỀ KIỂM TRA KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN VĂN BẢN CỦA HỌC SINH LỚP 9
Đọc văn bản sau trả lời các câu hỏi
CÂU CHUYỆN VỀ HẠT LÚA
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to, khỏe và chắc mẩy.
Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm:"Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng và chọn góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó. Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thực sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.
Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì- nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới.
(Hạt giống tâm hồn, NXBGD, 2004)
Câu 1:
Văn bản trên có sự kết hợp những phương thức biểu đạt nào? Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thể hiện của văn bản là gì?
Câu 2:
Hình ảnh" Hạt lúa thứ hai dù tan nát trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới"gợi cho anh chị những suy nghĩ gì?
Câu 3: Viết lại câu sau thành một câu đơn:" Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù tan nát trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt".
Câu 4: Từ câu chuyện của hạt lúa thứ hai, em hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa đích thực của cuộc sống, không chỉ thu mình trong vỏ bọc bình yên mà phải biết vươn ra, chấp nhận thử thách, chông gai để đóng góp cho cuộc đời.
Câu 5: Kể tên một văn bản ca ngợi ý chí, nghị lực con người. Nêu ngắn gọn nội dung tác phẩm đó?
Xin chân thành cám ơn
sự có mặt và lắng nghe
của quý thầy cô giáo!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Hoàng Minh
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)