SKKN RÈN ĐỌC CHO HS LỚP 2
Chia sẻ bởi Dương Thị Lệ Hường |
Ngày 10/10/2018 |
45
Chia sẻ tài liệu: SKKN RÈN ĐỌC CHO HS LỚP 2 thuộc Tập đọc 2
Nội dung tài liệu:
CHÀO MỪNG CÁC THẦY CÔ GIÁO
1. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tiếng Việt là môn học công cụ mà trong đó tập đọc đóng vai trò khởi đầu. Đọc giúp học sinh có khả năng hiểu biết, tiếp thu được nền văn minh của loài người. Nhờ biết đọc các em mới có điều kiện để học và tiếp thu các môn học khác. Thông qua môn Tập đọc học sinh mới có công cụ để học tập và giao tiếp; đọc không những giúp học sinh phát triển tư duy mà còn bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp góp phần phát triển nhân cách toàn diện - nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đọc tốt, học sinh mới có thể viết tốt, thực hành tốt các hoạt động của các môn học khác, góp phần hình thành và phát triển 5 mặt giáo dục.
Đối với học sinh lớp 2, phân môn Tập đọc cần đạt hai kỹ năng cơ bản đó là: Kỹ năng đọc đúng và kỹ năng đọc hiểu. Đọc đúng giúp cho học sinh bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, giúp các em có thể tự học. Nhưng đối với học sinh lớp 2 ở lớp tôi đang dạy để dạy cho một số em đọc một cách trôi chảy, rõ ràng là cả một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp chứ chưa nói đến đọc diễn cảm. Mặt dù ở lớp 1 các em được tiếp thu với 4 kỹ năng nghe - nói - đọc - viết mà chủ yếu là đọc, viết. Song do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và do trong hè các em chưa chú ý rèn luyện nên dẫn đến hiệu quả khi học môn Tiếng Việt rất thấp. Học sinh còn đánh vần ê-a, ngắc ngứ trong quá trình đọc. Đây là vấn đề mà tôi rất băn khoăn, trăn trở. Thầy làm thế nào để trò đọc tốt đây? Xuất phát từ những yêu cầu, lý do trên, sau khi nghiên cứu và thực hiện tôi thấy có hiệu quả nên tôi xin mạnh dạn chọn sáng kiến:“Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2”.
1.1. THỰC TRẠNG:
Qua thực tế giảng dạy ở trường nhiều năm, tôi nhận thấy một số các em ở trong lớp không thích học phân môn Tập đọc. Vì các em đọc chưa trôi chảy, nhiều em đọc cũng chưa chuẩn tiếng, đọc như thế nào thì viết như thế ấy nên phần nào có ảnh hưởng đến quá trình học tập trong môn Tiếng Việt nhất là phân môn Tập đọc. Trước tình hình đó tôi cũng như các đồng chí trong tổ rất băn khoăn trăn trở, chúng tôi đã cùng nhau bàn bạc, trao đổi để tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc học sinh lớp 2 đọc chậm, đọc yếu và không thích học tập đọc. Từ đó tìm ra các biện pháp giúp các em ngày càng học tốt hơn, ham thích học nhất là đối với phân môn Tập đọc.
1.1.1 Đối với học sinh :
a, Phụ huynh học sinh đa số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình.
b, Ngoài việc các em đọc sai về phụ âm đầu, âm chính, dấu thanh; các em còn đọc chưa chính xác về tiết tấu, ngắt nghỉ chưa đúng chấm phẩy và ngữ điệu của câu như: lên giọng, xuống giọng, chuyển giọng, cường độ, trường độ,…
Vd: Bài “Cây xoài của ông em” có câu học sinh đọc như sau: (Mùa xoài nào/mẹ em/cũng chọn/những quả chín vàng/và to nhất/bày lên bàn thờ ông.//)
Chính vì học sinh đọc chưa đúng, nên các em không thể hiểu được nội dung đoạn văn; không đọc diễn cảm bài văn, không rung cảm với các bài văn. Đọc diễn cảm đối với học sinh lớp 2 mới chỉ là bước đầu song cũng rất cần thiết để khuyến khích cho các em đọc tốt, dẫn đến cảm thụ tốt làm nền tảng cho các em học các lớp trên.
c, Ngoài các nguyên nhân trên còn có nguyên nhân chủ đạo nữa là các em ít học đọc ở nhà. Nếu có học thì cũng chưa biết cách học đọc, chỉ đọc một cách qua loa chiếu lệ, chưa có sự chuẩn bị bài chu đáo. Nên đến lớp nhiều em chưa phát huy được vai trò của mình.
1.1.2 Đối với giáo viên :
- Còn ít chú ý đến tâm thế đọc của học sinh: Cách ngồi đọc, đứng đọc, cách cầm sách, cách lấy hơi, sự bình tĩnh tự tin.
- Chưa phát hiện kịp thời số học sinh có thói quen đọc vẹt.
- Chưa chú ý đến việc đọc thầm và chưa thấy hết sự gắn bó chặt chẽ giữa đọc thành tiếng và đọc thầm.
Từ thực trạng trên, dẫn đến học sinh sẽ không hiểu nội dung bài và dần dần các em học yếu phân môn Tập đọc.
Thực tế khảo sát chất lượng đọc của học sinh đầu năm cho thấy:
Sau đợt khảo sát, tôi đã chú ý đến chất lượng của từng em trong mỗi tiết học, tôi đã ghi lại những học sinh đọc sai ở phương diện nào một cách cụ thể ra giấy rồi tổng hợp lại; sau đó phân theo nhóm để rèn luyện học sinh được sâu sát hơn.
- Đọc đúng rõ ràng từng từ, từng câu: 6 em
- Đọc ê - a, đọc lệch chuẩn: 9 em
- Đọc ngắt nghỉ tuỳ tiện: 5 em
- Đọc đánh vần từng tiếng: 9 em
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP:
2.1. BIỆN PHÁP CHUNG:
- Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh hợp lý.
- Xây dựng tốt nề nếp lớp.
- Chuẩn bị cho việc đọc:
+ Hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc: cần đàng hoàng, bình tĩnh trong qúa trình đọc; ngồi đúng tư thế; cách cầm sách giáo khoa đúng khoảng cách từ mắt đến sách là 25cm đến 30 cm .
+ Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Vì vậy cần hướng dẫn các em biết nghe “Bạn đọc không chỉ cho cô nghe mà cho cả lớp nghe, nghe để đọc tiếp, nghe để nhận xét”. Như thế không có nghĩa là đọc quá to như là gào lên, mà là đọc đủ lớn.
2.2. BIỆN PHÁP CỤ THỂ:
a, Luyện đọc đúng:
- Đọc đúng là tái hiện âm thanh bài học cần đọc chính xác, không đọc thừa, thiếu; sót âm, vần. Đọc đúng phải thể hiện ngữ âm chuẩn để hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ không bị lẫn lộn.
- Đọc đúng còn có nghĩa là đọc đúng ngữ điệu, tiết tấu, ngắt nghỉ hơi đúng, thay đổi giọng đọc phù hợp với bài đọc.
- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh đọc đúng âm vị Tiếng Việt.
b, Luyện đọc đúng tiếng, từ, cụm từ:
Phần này gồm đọc mẫu của giáo viên và hướng dẫn học sinh đọc. Vì thế giáo viên cần đọc mẫu thật chuẩn, thể hiện đúng hệ thống chính âm. Trong quá trình chuẩn bị bài dạy giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài dạy, chuẩn bị tốt các bước lên lớp, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa việc làm của giáo viên và học sinh. Đồng thời giáo viên phải dự tính cụ thể lỗi của bài hôm đó mà học sinh hay mắc để tìm cách khắc phục cho các em trong giờ học. Phần luyện đọc tiếng, từ, cụm từ tôi luyện đọc cho học sinh sau phần giáo viên đọc mẫu lần một - học sinh đọc nối tiếp từng câu, sau đó giáo viên rút ra từ khó mà học sinh dễ sai để luyện đọc.
* Rèn đọc phụ âm đầu:
Ở phần này học sinh thường đọc sai một số phụ âm đầu do lỗi phát âm chưa chuẩn.
Vd: Khi dạy bài “ Bà cháu ” trong bài có câu: “ Khi bà mất, gieo hạt đào này bên mộ, các cháu sẽ giàu sang, sung sướng”
Học sinh thường đọc sai “ s” thành “ x”; “ giàu sang” học sinh đọc là “ giàu xang”“ sung sướng ” học sinh đọc là “ xung xướng”.
Đầu tiên giáo viên đọc thật chuẩn các từ trên rồi gọi một số em đọc khá đọc lại, sau đó đến những em đọc sai đọc lại nhiều lần.
GV hướng dẫn cách phát âm “s”; “x” như sau:
+ Âm “s”: lưỡi cong lên chạm lợi, hơi đi ra phía trên hai bên lưỡi.
+ Âm “x”: đầu lưỡi chạm lợi, hơi thoát ra cả miệng lẫn lưỡi.
i + u, còn “ưu”
* Rèn đọc đúng âm chính:
Tôi tiến hành phân tích cho các em về sự khác nhau giữa âm chính mà các em đọc sai.
Vd: Khi dạy bài tập đọc “ Cây xoài của ông em” không đọc “lúc lửu” mà đọc là “lúc lỉu”; giữa “iu”và “ưu” có cấu tạo khác nhau: “iu” i + u, còn “ưu” ư + u, hay đọc “con hươu” đọc là “con hiêu” tôi cũng cho các em đánh vần tiếng “hươu” và tiếng “hiêu”. Từ đó các em đọc đúng không đọc nhầm nữa.
Đối với học sinh trường tôi như phần thực trạng đã nêu: các em thường đọc sai, thiếu dấu thanh nhiều. Do vậy trong mỗi giờ học tập đọc tôi đều có yêu cầu riêng là rèn đọc đúng các dấu thanh chủ yếu là rèn đọc cá nhân.
Vd: Phải đọc “lẫm chẫm” không đọc “ lẫm chẩm” giáo viên cần hướng dẫn học sinh hai dấu thanh ngã đi liền nhau thì cần phải nhấn giọng cả hai tiếng. Như vậy, để luyện cho các em đọc đúng tiếng, từ, cụm từ thì trước tiên ta phải luyện âm. Luyện âm một cách chính xác và có hiệu quả.
c, Luyện đọc câu:
Sau khi luyện đọc tiếng, từ, cụm từ tôi chuyển sang luyện đọc câu. Trong quá trình học sinh đọc, tôi thấy học sinh ngắt, nghỉ hơi một cách tuỳ tiện. Để hướng dẫn học sinh đọc đúng, tôi thực hiện như sau: Đầu tiên tôi chép câu khó lên bảng, sau đó tôi đọc cả câu cho học sinh lắng nghe phát hiện xem cô ngắt hơi, nghỉ hơi ở chỗ nào? Rồi tôi dùng phấn kẻ một nét xiên ( / ) ngắt hơi và 2 nét xiên ( // ) nghỉ hơi, “…” đọc chậm lại, kéo dài, dấu gạch chân biểu thị sự nhấn giọng; khoanh tròn vào các tiếng có vần khó cần luyện đọc, tiếp đến tôi cho học sinh dùng bút chì ghi ký hiệu để ghi lại ngữ điệu của bài. Tiếp theo tôi sẽ đọc mẫu lại và cho 2 học sinh đọc tốt đọc cho cả lớp nghe. Cho học sinh luyện đọc cá nhân.
Vd: Khi dạy bài “ Cây xoài của ông em” câu: Ăn quả xoài cát chín trảy từ cây của ông em trồng, kèm với xôi nếp hương, thì đối với em không thứ quà gì ngon bằng. Tôi tiến hành hướng dẫn đọc như sau:
Giáo viên đọc cho học sinh phát hiện cô ngắt nghỉ ở chỗ nào? ( Ngắt ở từ “chín, em”, nghỉ ở từ “bằng”).
Hỏi: Vì sao cô ngắt ở từ “chín và em”? (vì đọc đến đó ta thấy nó diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn).
Sau đó tôi dùng phấn gạch một nét xiên ( / ) sau từ “chín, em” để trong quá trình đọc học sinh đọc đúng.
Hỏi: Vì sao cô nghỉ hơi ở từ “bằng”- học sinh nêu cách nhận biết: (vì đã có dấu kết thúc câu). Tôi gạch 2 nét xiên
( // ) sau từ “ bằng”.
Cho vài học sinh khá đọc và luyện đọc cho học sinh. Lưu ý cho học sinh khi đọc câu văn dài các em cần ngắt hơi ở một số cụm từ dài và cụm từ đó phải diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn.
Vd: Khi dạy bài “Cây dừa?”
Tôi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ bằng cách giáo viên đọc, học sinh lắng nghe sau đó học sinh nói rõ trong câu đó ngắt nhịp mấy cho hợp lý rồi tiến hành luyện đọc:
Ai mang nước ngọt, / nước lành, /
Hoặc: Tiếng dừa / làm dịu nắng trưa /
Thực tế khi đọc học sinh hay đọc ngắt nhịp 3/3 ở hai câu trên.
- Giáo viên cần hướng dẫn thêm cách ngắt nhịp trong câu thơ.
d, Luyện đọc tốc độ:
Hướng dẫn học sinh đọc giữ tốc độ không đọc ê-a, không đọc quá nhanh hoặc qúa nhỏ, giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng việc giữ nhịp đọc. Để điều chỉnh tốc độ bằng cách trước khi dạy, giáo viên đếm trong bài có bao nhiêu tiếng rồi dự kiến bao nhiêu phút. Khi đã đọc được bài thì giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài. Tôi đã sử dụng phương pháp phân tích mẫu, sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phân tích các vật liệu mẫu để hình thành các kiến thức văn học, các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Để học sinh phân tích dễ dàng giáo viên có thể tách câu hỏi trong sách giáo khoa thành nhiều câu hỏi nhỏ để học sinh dễ hiểu hơn.
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài “ Cây xoài của ông em” ( Tập đọc lớp 2, Trang 89). Với câu hỏi: Tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ ông?Tôi chia thành hai câu hỏi để dẫn học sinh: - Vào mùa xoài chín mẹ thường làm gì?
- Tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ ông?
Khi dạy các bài có tranh, giáo viên sử dụng phương pháp trực quan là cho học sinh quan sát tranh minh họa các bài tập đọc ở sách giáo khoa để giúp các em dễ hiểu và biết thêm một số hình ảnh, chi tiết, nhân vật ở trong bài .
Phân môn tập đọc có nhiệm vụ rèn các kỹ năng: đọc, nghe, nói. Trọng tâm là kỹ năng đọc. Để hình thành và phát triển tốt các kỹ năng này cho học sinh, giáo viên cần tổ chức các hoạt động trên lớp sao cho tất cả các học sinh đều được đọc, nếu như em đọc tốt rồi thì hướng dẫn các em đọc hay hơn, trả lời những câu hỏi khó hơn. Còn các em đọc chậm, nhỏ thì yêu cầu các em đọc tăng dần tốc độ và đọc to dần. Yêu cầu học sinh học cách đọc của giáo viên và những em đọc tốt. Những em đọc yếu thực sự thì giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đúng các từ khó, đọc đúng từng câu sau đó đọc từng đoạn.Tuyên dương kịp thời những em đọc tốt và những em có nhiều tiến bộ.
e. Luyện đọc thầm:
Trong thực tế giảng dạy tôi cũng như nhiều giáo viên chưa chú ý đúng mức luyện đọc thầm cho học sinh. Đọc thầm thực sự có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng. Dạy đọc thầm chính là dạy cho học sinh đọc có ý thức. Kết quả của việc đọc thầm là giúp cho học sinh hiểu được ý nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, cả bài nghĩa là toàn bộ những gì các em được đọc.
Vd: Khi dạy bài “ Cây xoài của ông em”, khi các em đọc thầm, các em hiểu được thực tế có rất nhiều loài xoài ngon như: Xoài thanh ca, xoài tượng nhưng xoài cát là xoài em thích nhất vì nó có mùi thơm dịu dàng, vị ngọt đậm đà, màu sắc đẹp, quả lại to. Thông qua đọc các em hiểu được “tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ ông” các em sẽ nói lên được cảm xúc của bản thân khi đọc đoạn văn, câu văn đó chính là để tưởng nhớ ông, biết ơn ông đã trồng cây xoài cho con cháu có quả.
3. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
3.1 KẾT QUẢ:
Tôi đã thực hiện các biện pháp luyện đọc nêu trên trong quá trình thực hiện bản thân tôi tự nhận xét và rút kinh nghiệm về cách tiến hành cho đến nay tôi thấy học sinh có phần tiến bộ hơn, sự tiến bộ của các em như sau:
3.2 BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Dạy học tiểu học đem lại cho học sinh kiến thức, kỹ năng, thái độ, giá trị làm cho sự hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện. Do ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy nên chất lượng giáo dục của bậc học này phải được chú trọng. Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn được quan tâm và không ngừng đẩy mạnh nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh để ngay từ đầu cấp tiểu học mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện; đồng thời phát huy được khả năng của mình về một môn học nào đó. Qua đó chuẩn bị ngay từ đầu bậc tiểu học những con người chủ động sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Để thực hiện tốt và có hiệu quả trong vệc giảng dạy trước yêu cầu đổi mới của đất nước người giáo viên trong khi nói, đọc và viết phải thực hiện sự chuẩn mực, đảm bảo tính chính xác, tính nêu gương cho học sinh. Muốn vậy đòi hỏi người giáo viên trong từng tiết dạy phải linh hoạt, mềm dẻo, vận dụng các biện pháp, hình thức sao cho tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên. Vì vậy, sáng kiến về phương pháp, cách thức trong tiết tập đọc là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Người giáo viên phải nắm vững phương pháp, thường xuyên trau dồi giọng đọc của mình. Nghiên cứu kỹ để soạn giảng có chất lượng trong từng tiết dạy. Tìm ra được những sai sót của học sinh thường mắc phải để có biện pháp cụ thể rèn đọc cho học sinh. Cần phát huy nhiều hình thức tổ chức dạy học trong tiết tập đọc để gây hứng thú cho học sinh. Gần gũi, động viên, tôn trọng học sinh, kiên trì nhẫn nại, quyết tâm rèn luyện học sinh, có lòng yêu nghề mến trẻ.
Trường Tiểu học số 1 Nam Lý
Kính chào và chúc sức khoẻ các thầy giáo, cô giáo
Năm học: 2013 - 2014
1. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tiếng Việt là môn học công cụ mà trong đó tập đọc đóng vai trò khởi đầu. Đọc giúp học sinh có khả năng hiểu biết, tiếp thu được nền văn minh của loài người. Nhờ biết đọc các em mới có điều kiện để học và tiếp thu các môn học khác. Thông qua môn Tập đọc học sinh mới có công cụ để học tập và giao tiếp; đọc không những giúp học sinh phát triển tư duy mà còn bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp góp phần phát triển nhân cách toàn diện - nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đọc tốt, học sinh mới có thể viết tốt, thực hành tốt các hoạt động của các môn học khác, góp phần hình thành và phát triển 5 mặt giáo dục.
Đối với học sinh lớp 2, phân môn Tập đọc cần đạt hai kỹ năng cơ bản đó là: Kỹ năng đọc đúng và kỹ năng đọc hiểu. Đọc đúng giúp cho học sinh bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, giúp các em có thể tự học. Nhưng đối với học sinh lớp 2 ở lớp tôi đang dạy để dạy cho một số em đọc một cách trôi chảy, rõ ràng là cả một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp chứ chưa nói đến đọc diễn cảm. Mặt dù ở lớp 1 các em được tiếp thu với 4 kỹ năng nghe - nói - đọc - viết mà chủ yếu là đọc, viết. Song do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và do trong hè các em chưa chú ý rèn luyện nên dẫn đến hiệu quả khi học môn Tiếng Việt rất thấp. Học sinh còn đánh vần ê-a, ngắc ngứ trong quá trình đọc. Đây là vấn đề mà tôi rất băn khoăn, trăn trở. Thầy làm thế nào để trò đọc tốt đây? Xuất phát từ những yêu cầu, lý do trên, sau khi nghiên cứu và thực hiện tôi thấy có hiệu quả nên tôi xin mạnh dạn chọn sáng kiến:“Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2”.
1.1. THỰC TRẠNG:
Qua thực tế giảng dạy ở trường nhiều năm, tôi nhận thấy một số các em ở trong lớp không thích học phân môn Tập đọc. Vì các em đọc chưa trôi chảy, nhiều em đọc cũng chưa chuẩn tiếng, đọc như thế nào thì viết như thế ấy nên phần nào có ảnh hưởng đến quá trình học tập trong môn Tiếng Việt nhất là phân môn Tập đọc. Trước tình hình đó tôi cũng như các đồng chí trong tổ rất băn khoăn trăn trở, chúng tôi đã cùng nhau bàn bạc, trao đổi để tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc học sinh lớp 2 đọc chậm, đọc yếu và không thích học tập đọc. Từ đó tìm ra các biện pháp giúp các em ngày càng học tốt hơn, ham thích học nhất là đối với phân môn Tập đọc.
1.1.1 Đối với học sinh :
a, Phụ huynh học sinh đa số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình.
b, Ngoài việc các em đọc sai về phụ âm đầu, âm chính, dấu thanh; các em còn đọc chưa chính xác về tiết tấu, ngắt nghỉ chưa đúng chấm phẩy và ngữ điệu của câu như: lên giọng, xuống giọng, chuyển giọng, cường độ, trường độ,…
Vd: Bài “Cây xoài của ông em” có câu học sinh đọc như sau: (Mùa xoài nào/mẹ em/cũng chọn/những quả chín vàng/và to nhất/bày lên bàn thờ ông.//)
Chính vì học sinh đọc chưa đúng, nên các em không thể hiểu được nội dung đoạn văn; không đọc diễn cảm bài văn, không rung cảm với các bài văn. Đọc diễn cảm đối với học sinh lớp 2 mới chỉ là bước đầu song cũng rất cần thiết để khuyến khích cho các em đọc tốt, dẫn đến cảm thụ tốt làm nền tảng cho các em học các lớp trên.
c, Ngoài các nguyên nhân trên còn có nguyên nhân chủ đạo nữa là các em ít học đọc ở nhà. Nếu có học thì cũng chưa biết cách học đọc, chỉ đọc một cách qua loa chiếu lệ, chưa có sự chuẩn bị bài chu đáo. Nên đến lớp nhiều em chưa phát huy được vai trò của mình.
1.1.2 Đối với giáo viên :
- Còn ít chú ý đến tâm thế đọc của học sinh: Cách ngồi đọc, đứng đọc, cách cầm sách, cách lấy hơi, sự bình tĩnh tự tin.
- Chưa phát hiện kịp thời số học sinh có thói quen đọc vẹt.
- Chưa chú ý đến việc đọc thầm và chưa thấy hết sự gắn bó chặt chẽ giữa đọc thành tiếng và đọc thầm.
Từ thực trạng trên, dẫn đến học sinh sẽ không hiểu nội dung bài và dần dần các em học yếu phân môn Tập đọc.
Thực tế khảo sát chất lượng đọc của học sinh đầu năm cho thấy:
Sau đợt khảo sát, tôi đã chú ý đến chất lượng của từng em trong mỗi tiết học, tôi đã ghi lại những học sinh đọc sai ở phương diện nào một cách cụ thể ra giấy rồi tổng hợp lại; sau đó phân theo nhóm để rèn luyện học sinh được sâu sát hơn.
- Đọc đúng rõ ràng từng từ, từng câu: 6 em
- Đọc ê - a, đọc lệch chuẩn: 9 em
- Đọc ngắt nghỉ tuỳ tiện: 5 em
- Đọc đánh vần từng tiếng: 9 em
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP:
2.1. BIỆN PHÁP CHUNG:
- Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh hợp lý.
- Xây dựng tốt nề nếp lớp.
- Chuẩn bị cho việc đọc:
+ Hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc: cần đàng hoàng, bình tĩnh trong qúa trình đọc; ngồi đúng tư thế; cách cầm sách giáo khoa đúng khoảng cách từ mắt đến sách là 25cm đến 30 cm .
+ Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Vì vậy cần hướng dẫn các em biết nghe “Bạn đọc không chỉ cho cô nghe mà cho cả lớp nghe, nghe để đọc tiếp, nghe để nhận xét”. Như thế không có nghĩa là đọc quá to như là gào lên, mà là đọc đủ lớn.
2.2. BIỆN PHÁP CỤ THỂ:
a, Luyện đọc đúng:
- Đọc đúng là tái hiện âm thanh bài học cần đọc chính xác, không đọc thừa, thiếu; sót âm, vần. Đọc đúng phải thể hiện ngữ âm chuẩn để hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ không bị lẫn lộn.
- Đọc đúng còn có nghĩa là đọc đúng ngữ điệu, tiết tấu, ngắt nghỉ hơi đúng, thay đổi giọng đọc phù hợp với bài đọc.
- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh đọc đúng âm vị Tiếng Việt.
b, Luyện đọc đúng tiếng, từ, cụm từ:
Phần này gồm đọc mẫu của giáo viên và hướng dẫn học sinh đọc. Vì thế giáo viên cần đọc mẫu thật chuẩn, thể hiện đúng hệ thống chính âm. Trong quá trình chuẩn bị bài dạy giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài dạy, chuẩn bị tốt các bước lên lớp, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa việc làm của giáo viên và học sinh. Đồng thời giáo viên phải dự tính cụ thể lỗi của bài hôm đó mà học sinh hay mắc để tìm cách khắc phục cho các em trong giờ học. Phần luyện đọc tiếng, từ, cụm từ tôi luyện đọc cho học sinh sau phần giáo viên đọc mẫu lần một - học sinh đọc nối tiếp từng câu, sau đó giáo viên rút ra từ khó mà học sinh dễ sai để luyện đọc.
* Rèn đọc phụ âm đầu:
Ở phần này học sinh thường đọc sai một số phụ âm đầu do lỗi phát âm chưa chuẩn.
Vd: Khi dạy bài “ Bà cháu ” trong bài có câu: “ Khi bà mất, gieo hạt đào này bên mộ, các cháu sẽ giàu sang, sung sướng”
Học sinh thường đọc sai “ s” thành “ x”; “ giàu sang” học sinh đọc là “ giàu xang”“ sung sướng ” học sinh đọc là “ xung xướng”.
Đầu tiên giáo viên đọc thật chuẩn các từ trên rồi gọi một số em đọc khá đọc lại, sau đó đến những em đọc sai đọc lại nhiều lần.
GV hướng dẫn cách phát âm “s”; “x” như sau:
+ Âm “s”: lưỡi cong lên chạm lợi, hơi đi ra phía trên hai bên lưỡi.
+ Âm “x”: đầu lưỡi chạm lợi, hơi thoát ra cả miệng lẫn lưỡi.
i + u, còn “ưu”
* Rèn đọc đúng âm chính:
Tôi tiến hành phân tích cho các em về sự khác nhau giữa âm chính mà các em đọc sai.
Vd: Khi dạy bài tập đọc “ Cây xoài của ông em” không đọc “lúc lửu” mà đọc là “lúc lỉu”; giữa “iu”và “ưu” có cấu tạo khác nhau: “iu” i + u, còn “ưu” ư + u, hay đọc “con hươu” đọc là “con hiêu” tôi cũng cho các em đánh vần tiếng “hươu” và tiếng “hiêu”. Từ đó các em đọc đúng không đọc nhầm nữa.
Đối với học sinh trường tôi như phần thực trạng đã nêu: các em thường đọc sai, thiếu dấu thanh nhiều. Do vậy trong mỗi giờ học tập đọc tôi đều có yêu cầu riêng là rèn đọc đúng các dấu thanh chủ yếu là rèn đọc cá nhân.
Vd: Phải đọc “lẫm chẫm” không đọc “ lẫm chẩm” giáo viên cần hướng dẫn học sinh hai dấu thanh ngã đi liền nhau thì cần phải nhấn giọng cả hai tiếng. Như vậy, để luyện cho các em đọc đúng tiếng, từ, cụm từ thì trước tiên ta phải luyện âm. Luyện âm một cách chính xác và có hiệu quả.
c, Luyện đọc câu:
Sau khi luyện đọc tiếng, từ, cụm từ tôi chuyển sang luyện đọc câu. Trong quá trình học sinh đọc, tôi thấy học sinh ngắt, nghỉ hơi một cách tuỳ tiện. Để hướng dẫn học sinh đọc đúng, tôi thực hiện như sau: Đầu tiên tôi chép câu khó lên bảng, sau đó tôi đọc cả câu cho học sinh lắng nghe phát hiện xem cô ngắt hơi, nghỉ hơi ở chỗ nào? Rồi tôi dùng phấn kẻ một nét xiên ( / ) ngắt hơi và 2 nét xiên ( // ) nghỉ hơi, “…” đọc chậm lại, kéo dài, dấu gạch chân biểu thị sự nhấn giọng; khoanh tròn vào các tiếng có vần khó cần luyện đọc, tiếp đến tôi cho học sinh dùng bút chì ghi ký hiệu để ghi lại ngữ điệu của bài. Tiếp theo tôi sẽ đọc mẫu lại và cho 2 học sinh đọc tốt đọc cho cả lớp nghe. Cho học sinh luyện đọc cá nhân.
Vd: Khi dạy bài “ Cây xoài của ông em” câu: Ăn quả xoài cát chín trảy từ cây của ông em trồng, kèm với xôi nếp hương, thì đối với em không thứ quà gì ngon bằng. Tôi tiến hành hướng dẫn đọc như sau:
Giáo viên đọc cho học sinh phát hiện cô ngắt nghỉ ở chỗ nào? ( Ngắt ở từ “chín, em”, nghỉ ở từ “bằng”).
Hỏi: Vì sao cô ngắt ở từ “chín và em”? (vì đọc đến đó ta thấy nó diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn).
Sau đó tôi dùng phấn gạch một nét xiên ( / ) sau từ “chín, em” để trong quá trình đọc học sinh đọc đúng.
Hỏi: Vì sao cô nghỉ hơi ở từ “bằng”- học sinh nêu cách nhận biết: (vì đã có dấu kết thúc câu). Tôi gạch 2 nét xiên
( // ) sau từ “ bằng”.
Cho vài học sinh khá đọc và luyện đọc cho học sinh. Lưu ý cho học sinh khi đọc câu văn dài các em cần ngắt hơi ở một số cụm từ dài và cụm từ đó phải diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn.
Vd: Khi dạy bài “Cây dừa?”
Tôi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ bằng cách giáo viên đọc, học sinh lắng nghe sau đó học sinh nói rõ trong câu đó ngắt nhịp mấy cho hợp lý rồi tiến hành luyện đọc:
Ai mang nước ngọt, / nước lành, /
Hoặc: Tiếng dừa / làm dịu nắng trưa /
Thực tế khi đọc học sinh hay đọc ngắt nhịp 3/3 ở hai câu trên.
- Giáo viên cần hướng dẫn thêm cách ngắt nhịp trong câu thơ.
d, Luyện đọc tốc độ:
Hướng dẫn học sinh đọc giữ tốc độ không đọc ê-a, không đọc quá nhanh hoặc qúa nhỏ, giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng việc giữ nhịp đọc. Để điều chỉnh tốc độ bằng cách trước khi dạy, giáo viên đếm trong bài có bao nhiêu tiếng rồi dự kiến bao nhiêu phút. Khi đã đọc được bài thì giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài. Tôi đã sử dụng phương pháp phân tích mẫu, sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phân tích các vật liệu mẫu để hình thành các kiến thức văn học, các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Để học sinh phân tích dễ dàng giáo viên có thể tách câu hỏi trong sách giáo khoa thành nhiều câu hỏi nhỏ để học sinh dễ hiểu hơn.
Ví dụ: Khi tìm hiểu bài “ Cây xoài của ông em” ( Tập đọc lớp 2, Trang 89). Với câu hỏi: Tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ ông?Tôi chia thành hai câu hỏi để dẫn học sinh: - Vào mùa xoài chín mẹ thường làm gì?
- Tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ ông?
Khi dạy các bài có tranh, giáo viên sử dụng phương pháp trực quan là cho học sinh quan sát tranh minh họa các bài tập đọc ở sách giáo khoa để giúp các em dễ hiểu và biết thêm một số hình ảnh, chi tiết, nhân vật ở trong bài .
Phân môn tập đọc có nhiệm vụ rèn các kỹ năng: đọc, nghe, nói. Trọng tâm là kỹ năng đọc. Để hình thành và phát triển tốt các kỹ năng này cho học sinh, giáo viên cần tổ chức các hoạt động trên lớp sao cho tất cả các học sinh đều được đọc, nếu như em đọc tốt rồi thì hướng dẫn các em đọc hay hơn, trả lời những câu hỏi khó hơn. Còn các em đọc chậm, nhỏ thì yêu cầu các em đọc tăng dần tốc độ và đọc to dần. Yêu cầu học sinh học cách đọc của giáo viên và những em đọc tốt. Những em đọc yếu thực sự thì giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đúng các từ khó, đọc đúng từng câu sau đó đọc từng đoạn.Tuyên dương kịp thời những em đọc tốt và những em có nhiều tiến bộ.
e. Luyện đọc thầm:
Trong thực tế giảng dạy tôi cũng như nhiều giáo viên chưa chú ý đúng mức luyện đọc thầm cho học sinh. Đọc thầm thực sự có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng. Dạy đọc thầm chính là dạy cho học sinh đọc có ý thức. Kết quả của việc đọc thầm là giúp cho học sinh hiểu được ý nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, cả bài nghĩa là toàn bộ những gì các em được đọc.
Vd: Khi dạy bài “ Cây xoài của ông em”, khi các em đọc thầm, các em hiểu được thực tế có rất nhiều loài xoài ngon như: Xoài thanh ca, xoài tượng nhưng xoài cát là xoài em thích nhất vì nó có mùi thơm dịu dàng, vị ngọt đậm đà, màu sắc đẹp, quả lại to. Thông qua đọc các em hiểu được “tại sao mẹ lại chọn những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thờ ông” các em sẽ nói lên được cảm xúc của bản thân khi đọc đoạn văn, câu văn đó chính là để tưởng nhớ ông, biết ơn ông đã trồng cây xoài cho con cháu có quả.
3. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
3.1 KẾT QUẢ:
Tôi đã thực hiện các biện pháp luyện đọc nêu trên trong quá trình thực hiện bản thân tôi tự nhận xét và rút kinh nghiệm về cách tiến hành cho đến nay tôi thấy học sinh có phần tiến bộ hơn, sự tiến bộ của các em như sau:
3.2 BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Dạy học tiểu học đem lại cho học sinh kiến thức, kỹ năng, thái độ, giá trị làm cho sự hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện. Do ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy nên chất lượng giáo dục của bậc học này phải được chú trọng. Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học luôn luôn được quan tâm và không ngừng đẩy mạnh nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh để ngay từ đầu cấp tiểu học mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện; đồng thời phát huy được khả năng của mình về một môn học nào đó. Qua đó chuẩn bị ngay từ đầu bậc tiểu học những con người chủ động sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Để thực hiện tốt và có hiệu quả trong vệc giảng dạy trước yêu cầu đổi mới của đất nước người giáo viên trong khi nói, đọc và viết phải thực hiện sự chuẩn mực, đảm bảo tính chính xác, tính nêu gương cho học sinh. Muốn vậy đòi hỏi người giáo viên trong từng tiết dạy phải linh hoạt, mềm dẻo, vận dụng các biện pháp, hình thức sao cho tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên. Vì vậy, sáng kiến về phương pháp, cách thức trong tiết tập đọc là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Người giáo viên phải nắm vững phương pháp, thường xuyên trau dồi giọng đọc của mình. Nghiên cứu kỹ để soạn giảng có chất lượng trong từng tiết dạy. Tìm ra được những sai sót của học sinh thường mắc phải để có biện pháp cụ thể rèn đọc cho học sinh. Cần phát huy nhiều hình thức tổ chức dạy học trong tiết tập đọc để gây hứng thú cho học sinh. Gần gũi, động viên, tôn trọng học sinh, kiên trì nhẫn nại, quyết tâm rèn luyện học sinh, có lòng yêu nghề mến trẻ.
Trường Tiểu học số 1 Nam Lý
Kính chào và chúc sức khoẻ các thầy giáo, cô giáo
Năm học: 2013 - 2014
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Dương Thị Lệ Hường
Dung lượng: 2,41MB|
Lượt tài: 0
Loại file: ppt
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)