SKKN DOI MOI PP DAY HOC

Chia sẻ bởi Đỗ Ngọc Hải | Ngày 29/04/2019 | 46

Chia sẻ tài liệu: SKKN DOI MOI PP DAY HOC thuộc Vật lí 8

Nội dung tài liệu:

PHÒNG GD-ĐT HUYỆN NĂM CĂN
TRƯỜNG THCS XÃ HIỆP TÙNG
THAM LUẬN:
GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
DẠY HỌC THEO KIỂU
"ĐỌC – CHÉP" MÔN VẬT LÝ

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII (12/1996) đã nhận định: " Phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, tích cực của người học".
Hiện nay các trường THCS ở huyện Năm Căn có nhiều tiết dạy tốt của các giáo viên theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực, tự chiếm lĩnh tri thức mới. Nhưng vẫn còn tình trạng dạy theo lối “đọc - chép”.
ĐỀ TÀI: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HOẠT ĐỘNG.

Qua thực tế giảng dạy môn Vật lý ở trường THCS xã Hiệp Tùng, tôi nhận thấy có một số nguyên nhân dẫn đến việc dạy học còn mang nặng tính đọc – chép:
+ Chưa có phòng chức năng, phương tiện phục vụ giảng dạy được trang bị nhưng qua nhiều năm sử dụng đã hư hỏng nhiều, không đáp ứng được yêu cầu dạy học theo phương pháp mới.
+ Học sinh quen lối học thụ động, gây khó khăn cho việc áp dụng các phương pháp dạy học hoạt động.
+ GV ít có điều kiện tiếp cận tiết dạy mẫu áp dụng phương pháp dạy học tích cực. Một số GV chưa thực sự tâm huyết với nghề nên chậm trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
+ Kỹ năng thực hành của giáo viên còn hạn chế nên chọn giải pháp đọc chép cho “an toàn”.
Trước tình hình trên, tôi xin đề xuất "phương pháp dạy học hoạt động" có thể áp dụng vào việc dạy học môn Vật lý. Với “phương pháp dạy học hoạt động” hi vọng rằng từng bước hạn chế được dạy học theo kiểu “đọc-chép” và phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS.
II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
A. Lựa chọn nội dung kiến thức để tổ chức cho HS hoạt động:
SGK đã trình bày các đơn vị kiến thức theo định hướng hoạt động. Trong từng đơn vị kiến thức, GV có thể tổ chức những hoạt động khác nhau để HS chiếm lĩnh kiến thức. Căn cứ vào nội dung kiến thức trong SGK, điều kiện thiết bị, thời gian học tập và khả năng học tập của HS, GV cân nhắc và lựa chọn nội dung để tổ chức cho HS hoạt động. Một số hoạt động thường gặp trong dạy học Vật lí là:
1. Tổ chức tình huống học tập (chủ yếu là xác định nhiệm vụ học tập) :
Đặt câu hỏi nghiên cứu
Nêu dự đoán
Đề ra giả thuyết
2. Thu thập thông tin :
Quan sát các hiện tượng,thí nghiệm, sự kiện,....
Tìm được những thông tin cần thiết từ sách, báo,...
Lập kế hoạch khám phá.
VD: Trong bài 14 Vật lý 8, ở hoạt động 1: Thí nghiệm HS dựa vào hướng dẫn thí nghiệm lựa chọn những dụng cụ cần thiết: 1 lực kế, 1 quả nặng, 1 thước thẳng, 1 ròng rọc, 1 giá đỡ, xác định được yếu tố cần giữ nguyên là quãng đường đi được s1 của vật nặng, các yếu tố cần xác định là lực kéo ( số chỉ của lực kế) của tay, quãng đường đi được s2.
d) Tiến hành khám phá
Ví dụ: bố trí, lắp đặt dụng cụ thiết bị TN; thực hiện TN theo hướng dẫn; thay đổi phương án TN nếu kết quả không phù hợp với vấn đề đặt ra.
e) Ghi các kết quả khám phá
Ví dụ: đọc số chỉ của các dụng cụ TN ở mức độ cẩn thận và chính xác cần thiết lập; lập bảng kết quả; biểu diễn kết quả bằng đồ thị; sơ đồ...
VD: Trong bài 14: Vật lý 8, ở hoạt động 1: Sau khi lựa chọn và xác định mục tiêu thí nghiệm HS sẽ tiến hành thí nghiệm theo hướng dẫn của SGK.




- Sau khi HS tiến hành thí nghiệm sẽ ghi kết quả ( các giá trị F1; s1; F2; s2 ) .
Xử lí thông tin
Lập bảng, biểu, vẽ đồ thị theo những cách khác nhau, từ đó phân tích dữ liệu và nêu ý nghĩa của chúng.
Tìm quy luật từ biểu, bảng, đồ thị.
Phân loại dấu hiệu giống nhau, khác nhau, nhận biết những dấu hiệu bản chất của những nhóm đối tượng đã quan sát.
So sánh, phân tích, tổng hợp dữ liệu và rút ra kết luận.
VD: Trong bài 14 Vật lý 8, ở hoạt động 1: Sau khi thí nghiệm HS kẻ bảng và điền các kết quả thí nghiệm (F1; s1; F2; s2 ) vào bảng






Sau đó học sinh tính các giá trị A1; A2.
Thông báo kết quả làm việc
Mô tả lại những TN đã làm
Trình bày, giải thích những việc đã làm bằng: lời, hình vẽ, đồ thị
Nêu kết luận đã tìm thấy được
Ví dụ: Sau khi có kết quả thí nghiệm và đã xử lý qua bảng đến đay HS có thể rút ra được nhận xét: Dòng ròng rọc động tuy lợi hai lần về lực nhưng lại thiệt hai lần về đường đi nên không có lợi gì về công.
Vận dụng, ghi nhớ kiến thức bằng cách
Giải bài tập (định tính, định lượng, thực nghiệm)
Làm đồ chơi, dụng cụ học tập
Học thuộc lòng.
Ví dụ: Trong bài 14 Vật lý 8, ở hoạt động 1: Sau khi thực hiên các bước trên có thể để HS dựa vào đó phát biểu thành định luật và thực hiện bài tập C5 SGK Vật lý 8 trang 50.
B. Dự kiến hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS hoạt động
Trong mỗi hoạt động, Gv dự kiến hệ thống câu hỏi xen kẽ với những yêu cầu Hs hoạt động để hướng dẫn Hs tiếp cận, tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới. Mỗi hoạt động đều nhằm mục tiêu chiếm lĩnh một kiến thức hay rèn luyện một kĩ năng cụ thể phục vụ cho việc đạt được mục tiêu chung của bài học. Hệ thống câu hỏi của Gv nhằm hướng dẫn Hs tiếp cận, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức trong từng hoạt động giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học. Muốn vậy, Gv phải:
+ Giảm số câu hỏi có yêu cầu thấp về mặt nhận thức, mang tính chất kiểm tra, chỉ yêu cầu nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, thường chỉ có một câu hỏi trả lời đúng, ngắn, không cần suy luận.
+ Tăng số câu hỏi then chốt nhằm vào những mục đích nhận thức cao hơn, đòi hỏi sự thông hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa, vận dụng kiến thức đã học cũng như các câu hỏi mở có nhiều phương án trả lời.
+Tăng cường câu hỏi yêu cầu nhận thức cao không có nghĩa là xem thường loại câu hỏi kiểm tra sự ghi nhớ vì không tích lũy kiến thức, sự kiện đến một mức độ nhất định nào đó thì khó mà tư duy sáng tạo.
Trong thực tế, Gv ít khi sử dụng thành công loại câu hỏi kích thích tư duy. Mục tiêu của việc đặt câu hỏi thường thất bại vì Gv không biết đặt câu hỏi như thế nào và khi nào thì nên dùng nó. Chẳng hạn như khi nghiên cứu định luật Ôm:
Câu hỏi “Dựa trên số liệu đo được, các em hãy cho biết cường độ dòng điện I chạy qua điện trở và hiệu điện thế U giữa hai điện trở đó có tỉ lệ thuận với nhau không? Là câu hỏi đã chứa đựng kiến thức và chỉ yêu cầu Hs trả lời “có” hoặc “không”, không đòi hỏi Hs tư duy tìm ra mối liên hệ giữa hai đại lượng I và U. Nhiều khi các em trả lời đúng câu hỏi này nhưng có thể chưa biết thế nào là tỉ lệ thuận và có thể cho rằng U phụ thuộc vào I, tức là chưa nắm bắt được bản chất của sự phụ thuộc này.
Còn với câu hỏi “Dựa vào số liệu đo được, em hãy nhận xét về mối quan hệ giữa hai đại lượng I và U?” đòi hỏi Hs tư duy tìm ra sự phụ thuộc tỉ lệ thuận và có khả năng bộc lộ sai sót cho rằng U phụ thuộc I, thông qua đó Gv có thể phân tích, điều chỉnh nhận xét của Hs, giúp Hs hiểu đúng bản chất của sự phụ thuộc đó.
* Sau đây là một số kỹ năng đặt câu hỏi:
1. Câu hỏi biết
2. Câu hỏi hiểu
3. Câu hỏi vận dụng
6. Câu hỏi đánh giá
5. Câu hỏi tổng hợp
4. Câu hỏi phân tích
1. Câu hỏi biết
Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra trí nhớ của Hs về các dữ liệu, số liệu, các định nghĩa, tên tuổi, địa điểm,...
Việc trả lời các câu hỏi này giúp Hs ôn lại được những gì đã học, đã đọc hoặc đã trải qua. Các từ để hỏi thường là: “CÁI GÌ…”, “BAO NHIÊU…”, “HÃY ĐỊNH NGHĨA…”, “CÁI NÀO…”, “EM BIẾT NHỮNG GÌ VỀ…”, “KHI NÀO...”, “BAO GIỜ…”, “HÃY MÔ TẢ...”…
Ví dụ: Hãy phát biểu định nghĩa chuyển động cơ học hoặc hãy liệt kê một số vật liệu thường dùng để chống ô nhiễm tiếng ồn.
2. Câu hỏi hiểu
Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra cách Hs liên hệ, kết nối các dữ liệu, số liệu, tên tuổi, địa điểm, các định nghĩa…
Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy HS có khả năng diễn tả bằng lời nói, nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong nội dung đang học. Các cụm từ để hỏi thường là: “TẠI SAO…”, “HÃY PHÂN TÍCH…”, “HÃY SO SÁNH…”, “HÃY LIÊN HỆ…”, “HÃY PHÂN TÍCH…”,…
Ví dụ: Hãy tính vận tốc của vật khi biết cụ thể độ dài quãng đường đi được và thời gian để đi hết quãng đường đó; hoặc hãy xác định giới hạn đo và chia nhỏ nhất của bình chia độ.
3. Câu hỏi vận dụng
Mục tiêu của loại câu hỏi là để kiểm tra khả năng áp dụng các dữ liệu, các khái niệm, các quy luật, các phương pháp… vào hoàn cảnh và điều kiện mới.
Việc trả lời các câu hỏi áp dụng cho thấy Hs có khả năng hiểu được các quy luật, các khái niệm… có thể lựa chọn tốt các phương án để giải quyết, vận dụng các phương án vào thực tiễn. Khi đặt câu hỏi cần tạo ra những tình huống mới khác với điều kiện đã học trong bài học và sử dụng các cụm từ như: “LÀM THẾ NÀO…”, “HÃY TÍNH SỰ CHÊNH LỆCH GIỮA…”, “EM CÓ THỂ GIẢI QUYẾT KHÓ KHĂN VỀ… NHƯ THẾ NÀO”,…
Ví dụ:
4. Câu hỏi phân tích
Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra khả năng phân tích nội dung vấn đề, từ đó đi đến kết luận, tìm ra mối quan hệ hoặc chứng minh một luận điểm.
Việc trả lời câu hỏi này cho thấy Hs có khả năng tìm ra được mối quan hệ mới, tự diễn giải hoặc đưa ra kết luận. Việc đặt câu hỏi phân tích đòi hỏi Hs phải giải thích được các nguyên nhân từ thực tế: “TẠI SAO…”, đi đến kết luận “EM CÓ NHẬN XÉT GÌ VỀ…”, “HÃY CHỨNG MINH…”. Các câu hỏi phân tích thường có nhiều lời giải (thể hiện sáng tạo)
Ví dụ:
5. Câu hỏi Tổng hợp
Mục tiêu của câu hỏi loại này là để kiểm tra xem Hs có thể đưa ra những dự đoán, giải quyết vấn đề, đưa ra câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo.
Câu hỏi tổng hợp thúc đẩy sự sáng tạo của Hs, các em phải tìm ra những nhân tố và ý tưởng mới để có thể bổ sung, cho nội dung. Để trả lời câu hỏi tổng hợp khiến Hs phải: dự đoán, giải quyết vấn đề và đưa ra các câu trả lời sáng tạo. Cần nói rõ cho Hs biết rõ rằng các em có thể tự do đưa ra những ý tưởng, giải pháp mang tính sáng tạo, tưởng tượng của riêng mình. Gv cần lưu ý rằng câu hỏi loại này đòi hỏi một thời gian chuẩn bị khá dài, vì vậy hãy để cho Hs có đủ thời gian tìm ra câu trả lời.
6. Câu hỏi Đánh giá
Mục tiêu của loại câu hỏi này là kiểm tra xem Hs có thể đóng góp ý kiến và đánh giá các ý tưởng, giải pháp,… dựa vào những tiêu chuẩn đã đề ra.
Ví dụ: Theo em trong 2 phương pháp đo thể tích bằng bình chia độ và bằng bình tràn thì phương pháp nào cho kết quả chính xác hơn?
Ví dụ:
+ Hãy tính vận tốc trung bình của một ô tô đi từ tỉnh A đến tỉnh B biết độ dài quãng đường đó là 150 km, ô tô khởi hành lúc 8h15’ và đến vào lúc 12h30’? (lớp 8).
+ Làm thế nào để sử dụng thước dài đã bị gãy đầu có vạch số 0? ( lớp 6)
+ Sau bài định luật Ôm ( Lớp 9): Làm thế nào để xác định điện trở của dây dẫn bằng Ampe kế và Vôn kế?
Ví dụ: Từ kết quả thí nghiệm, hãy nhận xét về mối quan hệ giữa độ lớn của lực kéo với độ nghiêng của mặt phẳng nghiêng; hoặc hãy chứng minh cái đinh vít là 1 dạng của mặt phẳng nghiêng.
Dưới đây xin nêu ra một số gợi ý khi đặt câu hỏi:
Nên:
Dừng một chút sau khi đặt câu hỏi
Nhận xét một cách khuyến khích đối với câu trả lời của Hs
Tạo điều kiện cho nhiều Hs trả lời một câu hỏi
Tạo điều kiện để cho mỗi Hs đều được trả lời câu hỏi, ít nhất 1 lần trong giờ học
Đưa ra những gợi ý nhỏ cho các câu trả lời hoặc dựa vào một phần nào đó trong câu trả lời để tiếp tục đặt câu hỏi
Yêu cầu Hs giải thích câu trả lời của mình (bản thân Hs)
Yêu cầu Hs liên hệ câu trả lời với những kiến thức khác.
Không nên:
Nhắc lại câu hỏi của mình
Tự trả lời câu hỏi của mình đưa ra
Nhắc lại câu trả lời của Hs
C. Tổ chức cho HS hoạt động trên lớp dưới những hình thức học tập khác nhau
Để tích cực hoá hoạt động học tập của HS ngoài hình thức tổ chức học toàn lớp, nên tăng cường tổ chức cho HS học tập CÁ NHÂN và học tập theo NHÓM ngay tại lớp.
1. Hình thức học tập cá nhân
2. Hình thức học tập theo nhóm
1. Hình thức học tập cá nhân
Là hình thức học tập cơ bản nhất vì nó tạo điều kiện cho mỗi HS trong lớp bộc lộ khả năng tự học của mình (được tự nghĩ, được tự làm việc một cách tích cực) nhằm đạt tới MT học tập.
Việc tổ chức học tập cá nhân có thể như sau:
Làm việc chung với cả lớp: GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức và hướng dẫn (gợi ý) HS làm việc.
Làm việc cá nhân: HS ghi kết quả ra vở hoặc trả lời vào phiếu học tập.
Làm việc chung với cả lớp: GV chỉ định một vài HS báo cáo kết quả các HS khác theo dõi, gợi ý và bổ sung.
2. Hình thức học tập theo nhóm
Trong khâu tổ chức lên lớp, vấn đề mà ta cần đưa ra là tổ chức cho HS học theo nhóm trên lớp.
Các bước tiến hành tổ chức hoc tập theo nhóm có thể như sau:
Làm việc chung cả lớp: GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, chia lớp thành các nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn gợi ý cho mỗi nhóm các vấn đề cần lưu ý khi trả lời câu hỏi, hoàn thành bài tập.
Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm (cử nhóm trưởng, thư kí, phân việc cho các thành viên trong nhóm). Từng cá nhân làm việc độc lập, sau đó thảo luận trong nhóm và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ của nhóm. Mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm (không nhất thiết phải là nhóm trưởng hay thư kí mà có thể là một thành viên bất kì của nhóm)
Làm việc chung cả lớp: (thảo luận tổng kết trước toàn lớp) Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả và thảo luận chung (các nhóm nhận xét, đóng góp ý kiến và bổ sung cho nhau). Gv tổng kết và chuẩn xác kiến thức.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Trên đây là một số trao đổi về phương pháp tổ chức hoạt động giúp HS tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức, tuy nhiên trong quá trình giảng dạy tuỳ từng hoạt động, Gv có thể phát huy tính tích cực nhận thức của HS ở những mức độ khác nhau, kinh nghiệm cho thấy khi dạy học theo hướng tích cực hoạt động nhận thức của HS, trong một tiết học, GV thường dễ bị “cháy giáo án”. Do đó, Gv cần xác định hoạt động trọng tâm (tùy thuộc MT đã được lượng hóa của bài học cũng như cơ sở thiết bị dạy học cho phép), phân bổ thời gian hợp lí để điều khiển hoạt động học tập của HS.
Hiệu quả kích thích tư duy Hs khi đặt câu hỏi ở mức độ nhận thức thấp hay cao sẽ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của Hs. Sẽ hoàn toàn vô tác dụng nếu Gv đặt câu hỏi khó để Hs không có khả năng trả lời được. Và mặt khác, thật không có nghĩa nếu đặt câu hỏi quá dễ đối với khả năng của Hs. Gv cần có nhận xét, động viên ngay những câu hỏi, trả lời đúng cũng như câu hỏi trả lời chưa đúng. Nếu tất cả Hs đều trả lời sai thì Gv cần đặt câu hỏi đơn giản hơn để Hs có thể trả lời được vì Hs chỉ có hứng thú học khi họ thành công trong học tập.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Tổ chức cho HS học tập theo nhóm ngay tại lớp bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định của tiết học nên GV phải biết tổ chức hợp lí mới có hiệu quả. Không nên lạm dụng các hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình thức. Ở trường THCS mỗi tiết học chỉ nên tổ chức từ 1 đến 2 hoạt động nhóm đối với những câu hỏi, vấn đề đặt ra khó và phức tạp, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các cá nhân mới hoàn thành nhiệm vụ. Nhớ rằng trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của HS phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của nó là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong tổ chức lao động.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
Từ những khó khăn trong công tác giảng dạy của trường, nhằm giúp quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả, từng bước đẩy lùi kiểu dạy học “đọc- chép”, tôi xin đề xuất một số kiến nghị:
Phòng GD cần có giải pháp bổ sung các loại thiết bị dạy học có chất lượng để đáp ứng được yêu cầu dạy học cho các trường, nhất là các trường tuyến xã.
Cần tổ chức các chuyên đề, thao giảng, tiết dạy mẫu, có áp dụng phương pháp mới phù hợp để cho giáo viên tham khảo.
Cần có kế hoạch tập huấn cho GV những kỹ năng thực hành Vật lý để nâng cao tay nghề cũng như hoàn thiện kỹ năng thực hành cho giáo viên.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Đỗ Ngọc Hải
Dung lượng: | Lượt tài: 2
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)