SKKN dạy từ Hán - Việt
Chia sẻ bởi Tống Hoàng Linh |
Ngày 12/10/2018 |
46
Chia sẻ tài liệu: SKKN dạy từ Hán - Việt thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
A / PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Cơ sở lý luận :
M.Go-rơ-ki nhà văn vĩ đại của nền văn học thế giới đã từng nói:“Văn học là nhân học”, ``Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí". Đúng như vậy! Văn học nói chung hay môn Ngữ văn nói riêng có tác động vô cùng to lớn đối với đời sống tình cảm cũng như việc phát triển tư duy của con người; giúp giáo dục, bồi đắp tư tưởng, tình cảm, đạo đức… cho học sinh một cách hiệu quả nhất. Không chỉ vậy, môn Ngữ văn còn có mối liên hệ tương hỗ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Trong mối quan hệ tích cực đó, từ Hán – Việt đóng một vai trò không thể phủ nhận được hay nói một cách khác là nó có vai trò vô cùng to lớn. Nhờ sự đóng góp của từ Hán – Việt mà tiếng Việt thêm giàu có, tinh tế, trang nhã, chuẩn xác và uyển chuyển, đủ khả năng đáp ứng một cách tốt nhất mọi sự diễn đạt của con người trong giao tiếp, trong đời sống văn hoá xã hội. Bên cạnh đó, lớp từ này còn giúp người Việt cảm nhận được tất cả cái hay cái đẹp trong những tác phẩm văn chương với việc hiểu tường tận từng từ Hán - Việt ở trong những tác phẩm đó.
II. Cơ sở thực tiễn :
Trong kho tàng ngôn ngữ của mình, người Việt sử dụng rất nhiều từ ngữ gốc Hán (từ Hán - Việt chiếm 60% - 70%) nhưng việc hiểu sai, dùng sai từ Hán - Việt là khá phổ biến. Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều từ Hán – Việt nếu chúng ta không hiểu hoặc hiểu sai sẽ dẫn đến nhiều vấn đề đáng tiếc xảy ra. Giáo sư Nguyễn Lân( cha của 9 vị giáo sư, tiến sĩ) đã từng nói "Một điều cần chú ý hơn nữa là ngay trong tiếng Việt hiện nay có bao nhiêu từ vốn là Hán tự bị người ta xuyên tạc, làm sai cả ý nghĩa, ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt... phải làm thế nào cho thanh thiếu niên ta phải biết chữ Hán thì mới dùng đúng tiếng Việt”( đăng trên báo Đại đoàn kết, số 28, ngày 7/4/1997). Từ Hán - Việt không chỉ có trong môn ngữ văn mà còn có trong tất cả các môn học khác. Không hiểu từ Hán Việt học sinh sẽ gặp khó khăn trong khâu phân biệt các khái niệm, ghi nhớ khái niệm, hiểu nghĩa của từ, hiểu nội dung bài học... Nếu biết nhiều từ Hán – Việt học sinh sẽ hiểu kiến thức bộ môn nhanh hơn, kĩ hơn do hiểu được đến “chân tơ kẽ tóc” những từ ngữ Hán - Việt ấy.
Ở chương trình giảng dạy môn ngữ văn THCS số lượng các tác phẩm học nguyên tác viết bằng chữ Hán tương đối nhiều, chưa kể ở cấp THPT. Trong quá trình dạy và học, giáo viên và học sinh phải đối chiếu với bản phiên âm, bản dịch nghĩa và dịch thơ... Nếu cả thầy và trò biết nhiều từ Hán – Việt thì việc học, tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp sẽ trở nên dễ dàng và toàn vẹn hơn. Đối với từ Hán – Việt, người biên soạn sách giáo khoa chương trình ngữ văn THCS đã chú ý tới. Cụ thể, ở cuối SGK học kì 2 các lớp 6,7,8 đều có bảng “phụ lục tra yếu tố Hán Việt” gồm 50 từ ở mỗi lớp, riêng lớp 9 là 70 từ (tổng cộng 220 từ ) và trong chuẩn kiến thức kĩ năng có ghi rất rõ : “Biết nghĩa 50 yếu tố Hán – Việt thông dụng xuất hiện nhiều trong các văn bản học ở lớp…” nhưng qua tìm hiểu thì giáo viên giảng dạy môn ngữ văn hầu như quên không giúp học sinh đạt được yêu cầu này. Chính vì vậy, phần lớn học sinh không hiểu tường tận nghĩa của từ Hán - Việt. Đối với học sinh trong trường Phổ thông thì việc trang bị cho các em kiến thức cơ bản về từ Hán – Việt sẽ giúp các em tự hiểu đúng nghĩa của từ ở trong các tác phẩm văn học, rèn rũa lời ăn tiếng nói, học cách sử dụng từ của cha ông………để từ đó cảm thụ được vẻ đẹp của “những viên ngọc quí” trong văn chương một cách sâu sắc, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu mến tiếng nói của dân tộc, vốn văn hoá của ông cha.
Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì mục tiêu “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” kể từ khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
I. Cơ sở lý luận :
M.Go-rơ-ki nhà văn vĩ đại của nền văn học thế giới đã từng nói:“Văn học là nhân học”, ``Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí". Đúng như vậy! Văn học nói chung hay môn Ngữ văn nói riêng có tác động vô cùng to lớn đối với đời sống tình cảm cũng như việc phát triển tư duy của con người; giúp giáo dục, bồi đắp tư tưởng, tình cảm, đạo đức… cho học sinh một cách hiệu quả nhất. Không chỉ vậy, môn Ngữ văn còn có mối liên hệ tương hỗ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Trong mối quan hệ tích cực đó, từ Hán – Việt đóng một vai trò không thể phủ nhận được hay nói một cách khác là nó có vai trò vô cùng to lớn. Nhờ sự đóng góp của từ Hán – Việt mà tiếng Việt thêm giàu có, tinh tế, trang nhã, chuẩn xác và uyển chuyển, đủ khả năng đáp ứng một cách tốt nhất mọi sự diễn đạt của con người trong giao tiếp, trong đời sống văn hoá xã hội. Bên cạnh đó, lớp từ này còn giúp người Việt cảm nhận được tất cả cái hay cái đẹp trong những tác phẩm văn chương với việc hiểu tường tận từng từ Hán - Việt ở trong những tác phẩm đó.
II. Cơ sở thực tiễn :
Trong kho tàng ngôn ngữ của mình, người Việt sử dụng rất nhiều từ ngữ gốc Hán (từ Hán - Việt chiếm 60% - 70%) nhưng việc hiểu sai, dùng sai từ Hán - Việt là khá phổ biến. Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều từ Hán – Việt nếu chúng ta không hiểu hoặc hiểu sai sẽ dẫn đến nhiều vấn đề đáng tiếc xảy ra. Giáo sư Nguyễn Lân( cha của 9 vị giáo sư, tiến sĩ) đã từng nói "Một điều cần chú ý hơn nữa là ngay trong tiếng Việt hiện nay có bao nhiêu từ vốn là Hán tự bị người ta xuyên tạc, làm sai cả ý nghĩa, ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt... phải làm thế nào cho thanh thiếu niên ta phải biết chữ Hán thì mới dùng đúng tiếng Việt”( đăng trên báo Đại đoàn kết, số 28, ngày 7/4/1997). Từ Hán - Việt không chỉ có trong môn ngữ văn mà còn có trong tất cả các môn học khác. Không hiểu từ Hán Việt học sinh sẽ gặp khó khăn trong khâu phân biệt các khái niệm, ghi nhớ khái niệm, hiểu nghĩa của từ, hiểu nội dung bài học... Nếu biết nhiều từ Hán – Việt học sinh sẽ hiểu kiến thức bộ môn nhanh hơn, kĩ hơn do hiểu được đến “chân tơ kẽ tóc” những từ ngữ Hán - Việt ấy.
Ở chương trình giảng dạy môn ngữ văn THCS số lượng các tác phẩm học nguyên tác viết bằng chữ Hán tương đối nhiều, chưa kể ở cấp THPT. Trong quá trình dạy và học, giáo viên và học sinh phải đối chiếu với bản phiên âm, bản dịch nghĩa và dịch thơ... Nếu cả thầy và trò biết nhiều từ Hán – Việt thì việc học, tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp sẽ trở nên dễ dàng và toàn vẹn hơn. Đối với từ Hán – Việt, người biên soạn sách giáo khoa chương trình ngữ văn THCS đã chú ý tới. Cụ thể, ở cuối SGK học kì 2 các lớp 6,7,8 đều có bảng “phụ lục tra yếu tố Hán Việt” gồm 50 từ ở mỗi lớp, riêng lớp 9 là 70 từ (tổng cộng 220 từ ) và trong chuẩn kiến thức kĩ năng có ghi rất rõ : “Biết nghĩa 50 yếu tố Hán – Việt thông dụng xuất hiện nhiều trong các văn bản học ở lớp…” nhưng qua tìm hiểu thì giáo viên giảng dạy môn ngữ văn hầu như quên không giúp học sinh đạt được yêu cầu này. Chính vì vậy, phần lớn học sinh không hiểu tường tận nghĩa của từ Hán - Việt. Đối với học sinh trong trường Phổ thông thì việc trang bị cho các em kiến thức cơ bản về từ Hán – Việt sẽ giúp các em tự hiểu đúng nghĩa của từ ở trong các tác phẩm văn học, rèn rũa lời ăn tiếng nói, học cách sử dụng từ của cha ông………để từ đó cảm thụ được vẻ đẹp của “những viên ngọc quí” trong văn chương một cách sâu sắc, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu mến tiếng nói của dân tộc, vốn văn hoá của ông cha.
Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì mục tiêu “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” kể từ khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Tống Hoàng Linh
Dung lượng: 179,00KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)