Skkn
Chia sẻ bởi Nguyễn Sỹ Bằng |
Ngày 11/10/2018 |
25
Chia sẻ tài liệu: skkn thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
I - đặt vẫn đề:
Phân môn tập làm văn ở tiểu học là rèn luyện cho học sinh kỹ năng luyện nói và viết. Phân môn tập làmg văn đã góp phần hiện thực hoá mục tiêu quan trọng nhất của việc dạy. Tiếng việt là dạy học sinh sử dụng tiếng việt trong đời sống sinh hoạt trong quá trình lĩnh hội tri thức khoa học . Từ tầm quan trọnh đó bộ giáo dục đã đổi mới chương trình sách giáo khoa bậc phổ thông . Trong phân môn tập làm văn lớp 2 rèn cho học sinh có kỹ năng nói, nghe ,viết tạo kỹ năng giao tiếp. Qua đó học sinh biết chào hỏi tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, nhờ cậy yêu cầu,khẳng định, phủ định. Biết sử dụng chúng trong mọi tình huống giao tiếp ở gia đình và xã hội. Học sinh nắm được một số kỹ năng phục vụ học tập và vận dung đời sống hàng ngày. Học sinh biết kể được một số sự việc đơn giản tả sơ lược về người , sự vật theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi. Nghe hiểu được ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến và nhận xét, trau dồi thái độ ứng xử, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, qua nội dung bài dạy. Từ đó áp dụng vào đời sống thực tế hàng ngày và cũng là cơ sở cho các lớp trên. Để đặt được yêu cầu cơ bản trên., bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 2, tôi rất băn khoăn và lo lắng tìm ra các giải pháp nhằm mục đích cung cấp các kiến thức nói trên.
II - Thực trạng cũ:
Phân môn tập làm văn noí riêng, môn Tiếng Việt nói chung dựa trên quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện đó là gồm nội dung và phương pháp dạy học .
Về nội dung và phân môn tập làm văn hiện nay khác với chương trình cải cách là nội dung vận dụng cho học sinh cả nước cho nên có nội dung sát với vùng này mà chưa sát với vùng khác.Ví dụ: bài nhận và gọi điện thoại. Vùng này học sinh chưa biết như thế nào là điện thoại. Nếu để học sinh tự giới thiệu thì rất khó khăn .Đời sống nhân dân ở đây rất khó khăn mặt bằng dân trí thấp thông tin đại chúng không có, không một lần giao tiếp bên ngoài xã hội nên rất hạn chế trong giao tiếp , nhất là ngôn ngữ bất đồng .ở đây chủ yếu là dân tộc khơ mú tiếng việt biết còn ít .Bố mẹ chưa quan tâm chú trọng việc học hành của con em mình, hơn nữa học sinh lớp 1 mới lên lớp2 nên việc tiếp xúc với phân môn tập làm văn rất khó .
Giáo viên được tiếp thu chương trình thay sách lớp 2 nhưng chưa được dạy lần nào do đó hạn chế về phương pháp . giáo viên phải suy nghĩ tìm tòi học hỏi đồng nghiệp .
Kết quả khảo sát sau 3 tuần đầu năm học:
Tổng số học sinh
số phút dạy
Đạt yêu cầu
không đạt yêu cầu
ghi chú
3
35
1
2
3
40
1
2
3
45
1
2
Xuất phát từ thực trạng môn tập làm văn trong quả trình giảng dạy tôi rút ra một
Phân môn tập làm văn ở tiểu học là rèn luyện cho học sinh kỹ năng luyện nói và viết. Phân môn tập làmg văn đã góp phần hiện thực hoá mục tiêu quan trọng nhất của việc dạy. Tiếng việt là dạy học sinh sử dụng tiếng việt trong đời sống sinh hoạt trong quá trình lĩnh hội tri thức khoa học . Từ tầm quan trọnh đó bộ giáo dục đã đổi mới chương trình sách giáo khoa bậc phổ thông . Trong phân môn tập làm văn lớp 2 rèn cho học sinh có kỹ năng nói, nghe ,viết tạo kỹ năng giao tiếp. Qua đó học sinh biết chào hỏi tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, nhờ cậy yêu cầu,khẳng định, phủ định. Biết sử dụng chúng trong mọi tình huống giao tiếp ở gia đình và xã hội. Học sinh nắm được một số kỹ năng phục vụ học tập và vận dung đời sống hàng ngày. Học sinh biết kể được một số sự việc đơn giản tả sơ lược về người , sự vật theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi. Nghe hiểu được ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến và nhận xét, trau dồi thái độ ứng xử, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, qua nội dung bài dạy. Từ đó áp dụng vào đời sống thực tế hàng ngày và cũng là cơ sở cho các lớp trên. Để đặt được yêu cầu cơ bản trên., bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 2, tôi rất băn khoăn và lo lắng tìm ra các giải pháp nhằm mục đích cung cấp các kiến thức nói trên.
II - Thực trạng cũ:
Phân môn tập làm văn noí riêng, môn Tiếng Việt nói chung dựa trên quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện đó là gồm nội dung và phương pháp dạy học .
Về nội dung và phân môn tập làm văn hiện nay khác với chương trình cải cách là nội dung vận dụng cho học sinh cả nước cho nên có nội dung sát với vùng này mà chưa sát với vùng khác.Ví dụ: bài nhận và gọi điện thoại. Vùng này học sinh chưa biết như thế nào là điện thoại. Nếu để học sinh tự giới thiệu thì rất khó khăn .Đời sống nhân dân ở đây rất khó khăn mặt bằng dân trí thấp thông tin đại chúng không có, không một lần giao tiếp bên ngoài xã hội nên rất hạn chế trong giao tiếp , nhất là ngôn ngữ bất đồng .ở đây chủ yếu là dân tộc khơ mú tiếng việt biết còn ít .Bố mẹ chưa quan tâm chú trọng việc học hành của con em mình, hơn nữa học sinh lớp 1 mới lên lớp2 nên việc tiếp xúc với phân môn tập làm văn rất khó .
Giáo viên được tiếp thu chương trình thay sách lớp 2 nhưng chưa được dạy lần nào do đó hạn chế về phương pháp . giáo viên phải suy nghĩ tìm tòi học hỏi đồng nghiệp .
Kết quả khảo sát sau 3 tuần đầu năm học:
Tổng số học sinh
số phút dạy
Đạt yêu cầu
không đạt yêu cầu
ghi chú
3
35
1
2
3
40
1
2
3
45
1
2
Xuất phát từ thực trạng môn tập làm văn trong quả trình giảng dạy tôi rút ra một
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Sỹ Bằng
Dung lượng: 47,00KB|
Lượt tài: 2
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)