Phân tích bài thơ Bếp Lửa_Bằng Việt
Chia sẻ bởi Phan Hoang Linh Trang |
Ngày 12/10/2018 |
34
Chia sẻ tài liệu: phân tích bài thơ Bếp Lửa_Bằng Việt thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
Bếp lửa (Bằng Việt)
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, Một bếp lửa ấp iu nồng đượm, Cháu thương bà biết mấy nắng mưa… Chắc hẳn ai đọc lại những câu thơ trên cũng ít nhiều bị khơi gợi lại những kỷ niệm thời thơ ấu, về thuở học trò không thể nào quên. Đó chính là những câu thư mở đầu trong bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt. Bài thơ "Bếp lửa" được viết năm 1963, lúc nhà thơ Bằng Việt đang học năm thứ hai tại Đại hoc Tổng hợp quốc gia Kiev (Ukraina, hồi đó còn thuộc Liên Xô). Nhà thơ Bằng Việt kể lại. “Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dậy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà”. Trong hoàn cảnh đó nhà thơ Bằng Việt đột nhiên nhớ lại thói quen bao nhiêu năm ấy của bà, những kỷ niệm ấu thơ như một cuốn phim cứ lần lần hiện lại, từ những năm nhà còn nhỏ tý, đi tản cư kháng chiến, rồi xa hơn nữa, là thời cả gia đình ông từ Huế đi ra Bắc, chuyến tàu gần như cuối cùng còn chạy trước thời tiêu thổ kháng chiến, đi dọc miền Trung dài dăc. Nhà thơ Bằng Việt thú nhận: “Tôi chẳng nhớ được gì ngoài tiếng hú còi tàu và tiếng chim tu hú kêu khăc khoải. Rồi lại cũng tiếng chim tu hú ấy vẫn kêu suốt những mùa vài chín dọc những triền sông dọc những bờ đê của cả vùng quê tôi, những năm tôi ở cùng bà”. Tất cả những suy nghĩ, nỗi ám ảnh đặc trưng của quê hương trên xứ người đó đã tạo nên cảm hứng cho nhà thơ Bằng Việt viết nên bài thơ “Bếp lửa”. Ông nói: “Bếp lửa” của tôi được đưa vào giảng dạy trong nhà trường có lẽ cũng bởi nó mang tính khái quát và tiêu biểu cho một lớp người trong cuộc kháng chiến ngày ấy. Bài thơ như một câu chuyện thật về những nhân vật có thật, ngôn ngữ không cách điệu, mánh khóe mà chỉ nôm na, bình dân, thông thường, không tự nhiên chủ nghĩa và khác hoàn toàn với ngôn ngữ thơ mới lúc bấy giờ, hay nói cho đúng hơn là bài thơ mang hơi thở công nông binh. Sau khi ra Bắc, cụ thân sinh nhà thơ Bằng Việt thoát ly đi lên Việt Bắc tham gia Kháng chiên, mẹ tham gia hội phụ nữ, nhà chỉ còn hai anh em, sau một thời kỳ về quê phụ giúp ông bác nhà thơ Bằng Việt chở xe ngựa kiếm sống nuôi gia đình. Chi tiết này về sau nhà thơ cũng đưa vào bài thơ "Bếp lửa", mà nhiều bạn cứ tưởng là hư cấu (Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy). Nói đến câu thơ này bông nhiên thấy ông buồn buồn. Ông giải thích: “Nhiều người sau khi đọc đến câu thơ này gọi điện cho tôi hỏi ‘ông có bịa không đấy vì nhà ông là gia đình theo cách mạng làm gì đến nỗi ông cụ đi “đánh xe khô rạc ngựa gầy”, hay ông giả vờ nghèo, kể khổ để mọi người phải thông cảm cho gia đình ông? Tôi khẳng định với họ rằng chẳng việc gì phải bịa hay cách điệu hoàn cảnh để xin mọi người thông cảm cả. Gia đình tôi có gì tôi đã đưa hết vào thơ rồi.” Nhà thơ kể tiếp: “Bố mẹ tôi ở trong Huế 18 năm và sinh tôi trong ấy. Sau khi cách mạng nổ ra cả nhà chuyển ra Bắc, tản cư về một vùng quê ở chân núi Ba Vì – Hà Tây. Sau khi cách mạng thành công bố tôi chưa có việc gì làm cho dù ông là một trí thức ngành luật. May sao trong lúc khó khăn đó bác tôi có cỗ xe ngựa chuyên chạy tuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội nên bố tôi nhận lời mời của bác đi phụ xe kiếm tiền nuôi gia đình. Những năm đói 1945 – 1946 ấy người còn đói nữa huống hồ ngựa nên chuyện tôi nói trong thơ “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” không có gì là sai hay cường điệu hoàn cảnh cả”. Rất nhiều chi tiết, cứ tưởng như ngẫu nhiên, đến khi tập họp lại, tự nhiên lại như những nét chấm phá để hình thành nên cả một khung cảnh, cả một không gian sống, thậm chí làm nên cái nền chân thật, sinh động cho cả một thời. Từ đó nhà thơ chỉ còn có việc dựng nên trên cái nền ấy một hình ảnh xuyên suốt, hình ảnh đã được điển hình hoá và phổ quát hoá, từ bà nội thực của mình trở thành bà nội của bao người khác, thành
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, Một bếp lửa ấp iu nồng đượm, Cháu thương bà biết mấy nắng mưa… Chắc hẳn ai đọc lại những câu thơ trên cũng ít nhiều bị khơi gợi lại những kỷ niệm thời thơ ấu, về thuở học trò không thể nào quên. Đó chính là những câu thư mở đầu trong bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt. Bài thơ "Bếp lửa" được viết năm 1963, lúc nhà thơ Bằng Việt đang học năm thứ hai tại Đại hoc Tổng hợp quốc gia Kiev (Ukraina, hồi đó còn thuộc Liên Xô). Nhà thơ Bằng Việt kể lại. “Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dậy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà”. Trong hoàn cảnh đó nhà thơ Bằng Việt đột nhiên nhớ lại thói quen bao nhiêu năm ấy của bà, những kỷ niệm ấu thơ như một cuốn phim cứ lần lần hiện lại, từ những năm nhà còn nhỏ tý, đi tản cư kháng chiến, rồi xa hơn nữa, là thời cả gia đình ông từ Huế đi ra Bắc, chuyến tàu gần như cuối cùng còn chạy trước thời tiêu thổ kháng chiến, đi dọc miền Trung dài dăc. Nhà thơ Bằng Việt thú nhận: “Tôi chẳng nhớ được gì ngoài tiếng hú còi tàu và tiếng chim tu hú kêu khăc khoải. Rồi lại cũng tiếng chim tu hú ấy vẫn kêu suốt những mùa vài chín dọc những triền sông dọc những bờ đê của cả vùng quê tôi, những năm tôi ở cùng bà”. Tất cả những suy nghĩ, nỗi ám ảnh đặc trưng của quê hương trên xứ người đó đã tạo nên cảm hứng cho nhà thơ Bằng Việt viết nên bài thơ “Bếp lửa”. Ông nói: “Bếp lửa” của tôi được đưa vào giảng dạy trong nhà trường có lẽ cũng bởi nó mang tính khái quát và tiêu biểu cho một lớp người trong cuộc kháng chiến ngày ấy. Bài thơ như một câu chuyện thật về những nhân vật có thật, ngôn ngữ không cách điệu, mánh khóe mà chỉ nôm na, bình dân, thông thường, không tự nhiên chủ nghĩa và khác hoàn toàn với ngôn ngữ thơ mới lúc bấy giờ, hay nói cho đúng hơn là bài thơ mang hơi thở công nông binh. Sau khi ra Bắc, cụ thân sinh nhà thơ Bằng Việt thoát ly đi lên Việt Bắc tham gia Kháng chiên, mẹ tham gia hội phụ nữ, nhà chỉ còn hai anh em, sau một thời kỳ về quê phụ giúp ông bác nhà thơ Bằng Việt chở xe ngựa kiếm sống nuôi gia đình. Chi tiết này về sau nhà thơ cũng đưa vào bài thơ "Bếp lửa", mà nhiều bạn cứ tưởng là hư cấu (Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy). Nói đến câu thơ này bông nhiên thấy ông buồn buồn. Ông giải thích: “Nhiều người sau khi đọc đến câu thơ này gọi điện cho tôi hỏi ‘ông có bịa không đấy vì nhà ông là gia đình theo cách mạng làm gì đến nỗi ông cụ đi “đánh xe khô rạc ngựa gầy”, hay ông giả vờ nghèo, kể khổ để mọi người phải thông cảm cho gia đình ông? Tôi khẳng định với họ rằng chẳng việc gì phải bịa hay cách điệu hoàn cảnh để xin mọi người thông cảm cả. Gia đình tôi có gì tôi đã đưa hết vào thơ rồi.” Nhà thơ kể tiếp: “Bố mẹ tôi ở trong Huế 18 năm và sinh tôi trong ấy. Sau khi cách mạng nổ ra cả nhà chuyển ra Bắc, tản cư về một vùng quê ở chân núi Ba Vì – Hà Tây. Sau khi cách mạng thành công bố tôi chưa có việc gì làm cho dù ông là một trí thức ngành luật. May sao trong lúc khó khăn đó bác tôi có cỗ xe ngựa chuyên chạy tuyến Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội nên bố tôi nhận lời mời của bác đi phụ xe kiếm tiền nuôi gia đình. Những năm đói 1945 – 1946 ấy người còn đói nữa huống hồ ngựa nên chuyện tôi nói trong thơ “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy” không có gì là sai hay cường điệu hoàn cảnh cả”. Rất nhiều chi tiết, cứ tưởng như ngẫu nhiên, đến khi tập họp lại, tự nhiên lại như những nét chấm phá để hình thành nên cả một khung cảnh, cả một không gian sống, thậm chí làm nên cái nền chân thật, sinh động cho cả một thời. Từ đó nhà thơ chỉ còn có việc dựng nên trên cái nền ấy một hình ảnh xuyên suốt, hình ảnh đã được điển hình hoá và phổ quát hoá, từ bà nội thực của mình trở thành bà nội của bao người khác, thành
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phan Hoang Linh Trang
Dung lượng: 79,50KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)