PHAN_TICH_BAI_LANG_CUA_KIM_LAN
Chia sẻ bởi Phạm Tuấn Anh |
Ngày 12/10/2018 |
15
Chia sẻ tài liệu: PHAN_TICH_BAI_LANG_CUA_KIM_LAN thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
I-MỞ BÀI
“Làng ta muôn thuở vẫn làng
Vẫn đồng lúa chín vẫn hàng tre xanh
Sương dày, áo vải mong manh
Củ khoai con tép góp thành làng ta.”
(Trường ca Làng – Nguyễn Văn Chương)
_Hình ảnh người nông dân và bức tranh sinh động ở làng quê Việt Nam luôn là đề tài muôn thuở cho các thi nhân đất Việt.
_Nhà văn Kim Lân luôn được biết đến qua những truyện ngắn viết về đề tài này.
_Trong đó, truyện ngắn “Làng” của KL đã khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân trong buổi đầu đến với cách mạng – những người nông dân yêu kháng chiến, có tình yêu làng gắn chặt với tình yêu Cách mạng, yêu đất nước.
_Và nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng” là một nhân chứng
II-THÂN BÀI
1.Giới thiệu chung
_Kim Lân sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa lâu đời nên rất am hiểu về nông thôn Việt Nam và cảnh ngộ người nông dân
_Truyện ngắn “Làng” được sáng tác trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp
_Làng Chợ Dầu trong tác phẩm là tên khác của làng Phù Lưu- một trong những ngôi làng đẹp và sầm uất của huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
_Tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến được tác giả thể hiện rõ nét qua nhân vật ông Hai
2.Phân tích
Ở phần đầu câu chuyện, ta thấy ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông.
Ông nói chuyện về làng quê của ông “say mê và náo nức một cách lạ thường”. Ông có thể ngồi hàng giờ để nói về chuyện làng của mình, để khoe về phong cảnh của làng.
Từ cái “phòng tuyên truyền sáng sủa”, “chòi phát thanh” cho đến cả “con đường làng lát đá xanh” tất cả đều làm ông cảm thấy hãnh diện Chính vì thế, khi ông bất đắc dĩ rời xa làng, lòng ông Hai luôn hướng về làng yêu dấu
Niềm vui, nỗi buồn trong lòng ông gắn liền với cái tên làng Chợ Dầu, nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Đúng thế, bởi lẽ:
“Khi ta ở chi là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Chế Lan Viên
Tuy đã được tản cư vào khu yên ổn, không bom, khong mìn, nhưng ông vẫn canh cánh trong lòng, lo lắng, “không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn khướt lắm”
Ông day dứt, khổ tâm, nhớ làng đến nỗi trở nên bực dọc, cộc cằn.
Ông thường sang nhà Bác Thứ trò chuyện và nói về làng mình
Lắm lúc nghĩ vẩn vơ, ông nhớ về những lúc cùng thanh niên làm việc “cùng hát hỏng, bông phèng, cùng đào, cùng cuốc, mê man suốt ngày”
Nỗi mong nhớ ấy cứ dằn vặt và trào dâng trong lòng ông. Có thể nói rằng làng chợ Dầu từ lâu đã trở thành hình ảnh thường trực trong trái tim ông, là máu thịt ông
Dõi theo tác phẩm, người đọc phát hiện ra ngoài tình cảm thiêng liêng mà ông Hai dành cho cái làng chợ Dầu của mình còn có một tình cảm khác thiêng liêng vĩ đại hơn. Đó là tình yêu dất nước thể hiện qua tình cảm đối với kháng chiến, với cụ Hồ.
Ông thường theo dõi tin tức kháng chiến ở phòng thông tin. Ông vui sướng khi nghe tin chiến thắng của cách mạng, hả hê trước sự thất bại của giặc
Ông khâm phục những người theo cách mạng: “tinh những người giỏi cả”, “Chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian, chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp”
Vì yêu làng mà ông yêu luôn cuộc kháng chiến mà mình tham gia
Nhưng rồi đúng lúc ấy, cái tin sét đánh từ người đàn bà đi tản cư đến với ông
Tin dữ không phải là làng Chợ Dầu bị đốt trụi hay nhà cửa ông bị mất mà là “cả làng chúng nó theo Tây làm Việt gian”
Ông vô cùng sửng sốt, bàng hoàng, nửa tin nửa ngờ
Cái tin ấy như “sét đánh ngang tai”, “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt ông tê rân rân, ông lặng đi tưởng như không thể thở được”
Chẳng lẽ làng Chợ Dầu mà ông yêu quý lại phản bội TQ hay sao? Nỗi đau khổ ấy dần dần đã trở thành nỗi ám ảnh trong ông không sao yên lòng
Cũng chình từ lúc ấy, chúng ta đã không tìm thấy được nữa một ông Hai hoạt bát, vui vẻ hằng ngày mà thay vào đó là một ông Hai suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức.
Nếu không yêu làng thì ông Hai cũng không đau
“Làng ta muôn thuở vẫn làng
Vẫn đồng lúa chín vẫn hàng tre xanh
Sương dày, áo vải mong manh
Củ khoai con tép góp thành làng ta.”
(Trường ca Làng – Nguyễn Văn Chương)
_Hình ảnh người nông dân và bức tranh sinh động ở làng quê Việt Nam luôn là đề tài muôn thuở cho các thi nhân đất Việt.
_Nhà văn Kim Lân luôn được biết đến qua những truyện ngắn viết về đề tài này.
_Trong đó, truyện ngắn “Làng” của KL đã khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân trong buổi đầu đến với cách mạng – những người nông dân yêu kháng chiến, có tình yêu làng gắn chặt với tình yêu Cách mạng, yêu đất nước.
_Và nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng” là một nhân chứng
II-THÂN BÀI
1.Giới thiệu chung
_Kim Lân sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa lâu đời nên rất am hiểu về nông thôn Việt Nam và cảnh ngộ người nông dân
_Truyện ngắn “Làng” được sáng tác trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp
_Làng Chợ Dầu trong tác phẩm là tên khác của làng Phù Lưu- một trong những ngôi làng đẹp và sầm uất của huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
_Tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến được tác giả thể hiện rõ nét qua nhân vật ông Hai
2.Phân tích
Ở phần đầu câu chuyện, ta thấy ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông.
Ông nói chuyện về làng quê của ông “say mê và náo nức một cách lạ thường”. Ông có thể ngồi hàng giờ để nói về chuyện làng của mình, để khoe về phong cảnh của làng.
Từ cái “phòng tuyên truyền sáng sủa”, “chòi phát thanh” cho đến cả “con đường làng lát đá xanh” tất cả đều làm ông cảm thấy hãnh diện Chính vì thế, khi ông bất đắc dĩ rời xa làng, lòng ông Hai luôn hướng về làng yêu dấu
Niềm vui, nỗi buồn trong lòng ông gắn liền với cái tên làng Chợ Dầu, nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Đúng thế, bởi lẽ:
“Khi ta ở chi là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Chế Lan Viên
Tuy đã được tản cư vào khu yên ổn, không bom, khong mìn, nhưng ông vẫn canh cánh trong lòng, lo lắng, “không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn khướt lắm”
Ông day dứt, khổ tâm, nhớ làng đến nỗi trở nên bực dọc, cộc cằn.
Ông thường sang nhà Bác Thứ trò chuyện và nói về làng mình
Lắm lúc nghĩ vẩn vơ, ông nhớ về những lúc cùng thanh niên làm việc “cùng hát hỏng, bông phèng, cùng đào, cùng cuốc, mê man suốt ngày”
Nỗi mong nhớ ấy cứ dằn vặt và trào dâng trong lòng ông. Có thể nói rằng làng chợ Dầu từ lâu đã trở thành hình ảnh thường trực trong trái tim ông, là máu thịt ông
Dõi theo tác phẩm, người đọc phát hiện ra ngoài tình cảm thiêng liêng mà ông Hai dành cho cái làng chợ Dầu của mình còn có một tình cảm khác thiêng liêng vĩ đại hơn. Đó là tình yêu dất nước thể hiện qua tình cảm đối với kháng chiến, với cụ Hồ.
Ông thường theo dõi tin tức kháng chiến ở phòng thông tin. Ông vui sướng khi nghe tin chiến thắng của cách mạng, hả hê trước sự thất bại của giặc
Ông khâm phục những người theo cách mạng: “tinh những người giỏi cả”, “Chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian, chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp”
Vì yêu làng mà ông yêu luôn cuộc kháng chiến mà mình tham gia
Nhưng rồi đúng lúc ấy, cái tin sét đánh từ người đàn bà đi tản cư đến với ông
Tin dữ không phải là làng Chợ Dầu bị đốt trụi hay nhà cửa ông bị mất mà là “cả làng chúng nó theo Tây làm Việt gian”
Ông vô cùng sửng sốt, bàng hoàng, nửa tin nửa ngờ
Cái tin ấy như “sét đánh ngang tai”, “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt ông tê rân rân, ông lặng đi tưởng như không thể thở được”
Chẳng lẽ làng Chợ Dầu mà ông yêu quý lại phản bội TQ hay sao? Nỗi đau khổ ấy dần dần đã trở thành nỗi ám ảnh trong ông không sao yên lòng
Cũng chình từ lúc ấy, chúng ta đã không tìm thấy được nữa một ông Hai hoạt bát, vui vẻ hằng ngày mà thay vào đó là một ông Hai suốt ngày ru rú trong nhà và nghe ngóng tin tức.
Nếu không yêu làng thì ông Hai cũng không đau
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Tuấn Anh
Dung lượng: 54,00KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)