Ôn tập: Khái niệm về phân số
Chia sẻ bởi Trương Minh Quốc Thắng |
Ngày 03/05/2019 |
38
Chia sẻ tài liệu: Ôn tập: Khái niệm về phân số thuộc Toán học 5
Nội dung tài liệu:
CHÀO MỪNG CÁC THẦY CÔ ĐẾN VỚI PHẦN THI
TÌM HIỂU DI TÍCH LỊCH SỬ
LỚP 7B
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Như chúng ta đã thấy, đây là toàn bộ sơ đồ kinh thành Huế.
Có một điểm đặc biệt ở trong sơ đồ này. Vậy nó là gì?
Đó chính là bốn bên kinh thành Huế. Mỗi bên là một dòng sông
Bên trái : sông Kẻ Vạn
Bên phải: sông Đông Ba
Bên trên: sông Hương
Phía dưới: sông Đào
Chúng ta sẽ tìm hiểu 1 số di tích sau:
1. Cột cờ ( Kỳ Đài)
2. Phu Văn Lâu
3. Quốc Tử Giám
4. Điện Long An
5. Tàng Thư Lâu
1.Cột cờ ( Kỳ Đài)
Kỳ Đài được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840
Kỳ Đài gồm hai phần: đài cờ và cột cờ.
A, Đài cờ
Đài cờ gồm ba tầng hình chóp cụt chữ nhật chồng lên nhau. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6 m, tầng trên cùng cao hơn 6 m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m . Ðỉnh mỗi tầng có xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát gạch vuông và gạch vồ, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới. Trên mặt đài, trước đây có hai điểm canh và 4 pháo xưởng để bố trí 4 khẩu đại bác.
B, Cột cờ
Cột cờ được dựng ở vị trí chính của mặt bằng tầng cao nhất. Lúc đầu cột cờ làm bằng gỗ. Năm 1846, vua Thiệu Trị cho thay cột cờ mới (Tân kiến trụ). Năm 1904 một trận bão lớn xảy ra ở Huế gọi là trận bão năm Thìn (Giáp Thìn) cột cờ lại bị gãy, đến thời vua Thành Thái, cột cờ lại được dựng bằng chất liệu gang. Đầu năm 1947, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp một lần nữa cột cờ Huế bị đổ. Đến năm 1948 Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung Kỳ cho xây dựng cột cờ bằng cốt thép cao 37m như chúng ta hiện đang thấy. Như vậy, tổng chiều cao từ mặt đất lên đến đỉnh Kỳ đài là 54,5m.
2. Phu Văn Lâu
Địa điểm: Phường Phú Hòa, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Phu Văn Lâu nằm gần bờ Bắc sông Hương, tại dải đất chạy ngang qua trước mặt Kinh thành và ở ngay trên trục chính của quần thể kiến trúc cố đô Huế: Điện Thái Hòa - Ngọ Môn - Kỳ Đài - Phu Văn Lâu - Nghinh Lương Đình - Hương Giang - Ngự Bình.
Tòa lầu này dùng làm nơi niêm yết các văn bản mà triều đình nhà Nguyễn cần bố cáo cho thần dân được biết: những chiếu chỉ của nhà vua hay bảng kết quả các cuộc thi Hội, thi Đình. Ngoài ra, đây cũng là nơi triều đình tổ chức các cuộc lễ khánh hỷ mang tính quốc gia có sự hiện diện của nhà vua, triều thần và dân chúng.
Theo mọi người thì Phu Văn Lâu dùng để làm gì?
Tại vị trí Phu Văn Lâu trước đây, triều đình (đầu thời Gia Long) đã cho xây một công trình kiến trúc tương đối nhỏ, mang tên Bảng Đình (Đình treo bảng). Đến năm 1819 cũng dưới thời Gia Long được thay thế bằng một tòa nhà hai tầng và đổi tên thành Phu Văn Lâu.
Năm 1843, vua Thiệu Trị cho dựng nhà bia bên tay phải lầu để khắc bài thơ “Hương Giang hiểu phiếm” (Buổi sớm bơi thuyền trên sông Hương).
Trong gần 190 năm tồn tại, Phu Văn Lâu được trùng tu khoảng 10 lần, lần sớm nhất vào năm 1905 (sau cơn bão năm Thìn, 1904, Phu Văn Lâu bị hư hỏng nặng), lần gần đây là vào năm 1994, 1995. Qua nhiều lần trùng tu nhưng về phương diện kết cấu kiến trúc không có gì thay đổi đáng kể.
Phu Văn Lâu là một tòa nhà lầu cao 11,67m, mái lợp ngói ống tráng men vàng (hoàng lưu ly), tòa nhà có 16 cột sơn màu đỏ sậm (4 cột chính xuyên suốt cả hai tầng, 12 cột quân), có hệ thống lan can bao xung quanh, không gian tầng dưới hoàn toàn để trống. Tầng hai, bốn mặt đều dựng đố bản, kiểu đồ lụa khung tranh, hai bên trổ cửa sổ tròn, lan can bên ngoài bằng gỗ, trên của sổ mặt tiền có treo hoành phi sơn son thếp vàng, trang trí dây lá cách điệu “lưỡng long triều nguyệt”. Trong lần tu sửa năm 1974, người ta đã thay thế một số kết cấu gỗ cột, kèo, xuyên bằng xi măng cốt thép.Phu Văn Lâu là một tác phẩm tạo hình xinh đẹp của triều Nguyễn, một di sản đặc sắc trong quần thể kiến trúc Cố đô.
3.Quốc Tử Giám
Địa điểm: Đường 23 tháng Tám, phường Thuận Thành, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trường Quốc Tử giám ở Huế được xây dựng từ thời vua Gia Long, tại địa phận làng An Ninh Thượng, lúc đầu trường ốc còn đơn giản, qua thời Minh Mạng, người đi học ngày càng đông, quy mô của trường được mở rộng.
Vì trường ở khá xa kinh thành, nên năm 1908, triều đình cho dời về gần bên trái Đại Nội như chúng ta thấy hiện nay.
Trường Quốc Tử Giám nằm trên một thửa đất khá rộng, mỗi bề trên dưới 200m. Mặt bằng kiến trúc chia làm hai khu vực (cách nhau bằng đường Lê Trực hiện nay). Giữa khu vực chính (ở trước) là Di Luân Đường. Giữa khu vực phụ phía sau là Tân Thơ viện (thư viện của trường). Hai tòa nhà này vốn trước đây là Minh Trưng Các và Điện Long An nằm trong cung Bảo Định được xây năm 1845 ở bờ Bắc Ngự Hà được dời đến dựng lại ở dây dưới triều Duy Tân (1908, 1909). Hai bên mặt sau Di Luân Đường, xây hai phòng học; hai bên sân trước xây hai dãy cư xá cho học viên. Hai bên Tân Thơ viện dựng hai ngôi nhà dành cho quan Tế Tửu (Hiệu trưởng) và quan Tư Nghiệp (Hiệu phó); trong khu vực còn có mấy ngôi nhà dành cho giáo quan và nhân viên. Hiện nay các công trình kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn.
4. Điện Long An
Điện được xây dựng vào năm 1845, thời vua Thiệu Trị với tên gọi là Điện Long An trong cung Bảo Định, phường Tây Lộc (Huế) làm nơi nghỉ của vua sau khi tiến hành lễ Tịch điền (cày ruộng) mỗi đầu xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu Trị thường hay lui tới, nghỉ ngơi, đọc sách, làm thơ, ngâm vịnh,... Sau khi vua Thiệu Trị qua đời, đây cũng là nơi quàn thi hài của vua trong tám tháng, trước khi làm lễ Ninh lăng (đưa đi an táng). Ngoài nơi thờ chính thức trong Thế Miếu, bài vị của vua Thiệu Trị còn được đưa vào thờ tại điện Long An - nơi ông thường lui tới khi còn sống. Trong thời kỳ thất thủ kinh đô (1885), quân Pháp đã tràn vào ngôi điện, làm mất đi sự tôn nghiêm của một nơi thờ phụng. Vì thế, sau biến cố này, bài vị của vua Thiệu Trị được đưa vào thờ tại điện Phụng Tiên bên trong Đại Nội.
Điện Long An nằm trong tổng thể kiến trúc cung Bảo Định được vua Thiệu Trị cho xây dựng vào năm 1845 ở bờ Bắc sông Ngự Hà (gầncầu Vĩnh Lợi phường Tây Lộc). Hiện nay, điện Long An nằm trên đường Lê Trực, phường Thuận Thành, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Là một di tích trong Quần thể di tích Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11/12/1993.
-
Sở dĩ ngôi điện ở vị trí hiện nay (số 3 Lê Trực, Huế) trong khu vực Thành nội, vì năm 1885, sau trận đánh úp đồn Mang Cá của Pháp do Tôn Thất Thuyết chỉ huy bị thất bại, vua Hàm Nghi và tam cung chạy khỏi Hoàng Thành, ra Quảng Trị. Kinh thành Huế thất thủ, quân Pháp chiếm cung Bảo Định làm sở chỉ huy, lục soát thô bạo điện Long An và tiếp đó ngôi điện bị triệt hạ, vật dụng được xếp vào kho.
Cho đến năm 1909, đời vua Duy Tân, ngôi điện được chuyển ra vị trí mới hiện nay và phục dựng làm Tân Thơ Viện lưu giữ hàng ngàn tư liệu bằng chữ Hán, Pháp, Anh,... chủ yếu phục vụ cho học sinh trường Quốc Tử Giám.
Ngày 24/8/1923, Khâm Sứ Trung kỳ và vua Khải Ðịnh cùng ban sắc dùng Ðiện Long An làm Bảo tàng Khải Ðịnh.
Hiện nay, điện Long An còn gọi là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, là nơi trưng bày cổ vật cung đình Huế
Ðiện Long An hình chữ nhật dài 35,70 m, rộng 28 m, vỉa ốp đá thanh nền cao 1,1 m. Diện tích phần mái rộng đến 1.750 m², nằm trên dàn trò được chống đỡ bằng hệ thống 128 cột gỗ lim. Các liên ba, đồ bản chạm khắc nhiều bài thơ là trước tác của vua Thiệu Trị, được bố trí sắp xếp hầu hết ở các khu vực bên trong ngôi điện một cách hài hòa.
5. Tàng Thư Lâu
Tàng thư lâu là một công trình xây dựng trên hồ Học Hải, Huế vào năm 1825, dùng làm nơi lưu các công văn cũ của cơ quan và lục bộ triều đình nhà Nguyễn. Đây có thể coi là một Tàng Kinh Các của Việt Nam dưới triều Nguyễn lưu trữ các tài liệu văn bản quý hiếm liên quan đến sinh hoạt của triều đình và biến đổi của đất nước.
Triều đình Nguyễn lựa chọn vị trí trên hòn đảo giữa hồ Học Hải với ý đồ cách ly với đất liền, chỉ thông thương bằng một cây cầu. Chính những kỹ thuật sơ khai lúc bấy giờ đã giúp cho Tàng thư lâu lưu trữ rất nhiều tài liệu quý giá lúc bấy giờ trong một khoảng thời gian rất dài. Nhưng cùng với sự chấm dứt của chế độ quân chủ, Tàng thư lâu cũng ngưng hoạt động. Khối lượng tài liệu khổng lồ lưu trữ tại đây cũng bị tiêu tán trong chiến tranh. Hiện nay, công trình này đang được lập hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Nằm ẩn mình trong hồ Học Hải, dọc đường Đinh Tiên Hoàng, nối với sông Ngự Hà và hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu như đang đắm mình cùng thời gian để hoài niệm về quá khứ lịch sử
Xin Chân Thành Cảm Ơn!
TÌM HIỂU DI TÍCH LỊCH SỬ
LỚP 7B
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Như chúng ta đã thấy, đây là toàn bộ sơ đồ kinh thành Huế.
Có một điểm đặc biệt ở trong sơ đồ này. Vậy nó là gì?
Đó chính là bốn bên kinh thành Huế. Mỗi bên là một dòng sông
Bên trái : sông Kẻ Vạn
Bên phải: sông Đông Ba
Bên trên: sông Hương
Phía dưới: sông Đào
Chúng ta sẽ tìm hiểu 1 số di tích sau:
1. Cột cờ ( Kỳ Đài)
2. Phu Văn Lâu
3. Quốc Tử Giám
4. Điện Long An
5. Tàng Thư Lâu
1.Cột cờ ( Kỳ Đài)
Kỳ Đài được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840
Kỳ Đài gồm hai phần: đài cờ và cột cờ.
A, Đài cờ
Đài cờ gồm ba tầng hình chóp cụt chữ nhật chồng lên nhau. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6 m, tầng trên cùng cao hơn 6 m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m . Ðỉnh mỗi tầng có xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát gạch vuông và gạch vồ, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới. Trên mặt đài, trước đây có hai điểm canh và 4 pháo xưởng để bố trí 4 khẩu đại bác.
B, Cột cờ
Cột cờ được dựng ở vị trí chính của mặt bằng tầng cao nhất. Lúc đầu cột cờ làm bằng gỗ. Năm 1846, vua Thiệu Trị cho thay cột cờ mới (Tân kiến trụ). Năm 1904 một trận bão lớn xảy ra ở Huế gọi là trận bão năm Thìn (Giáp Thìn) cột cờ lại bị gãy, đến thời vua Thành Thái, cột cờ lại được dựng bằng chất liệu gang. Đầu năm 1947, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp một lần nữa cột cờ Huế bị đổ. Đến năm 1948 Hội đồng chấp chánh lâm thời Trung Kỳ cho xây dựng cột cờ bằng cốt thép cao 37m như chúng ta hiện đang thấy. Như vậy, tổng chiều cao từ mặt đất lên đến đỉnh Kỳ đài là 54,5m.
2. Phu Văn Lâu
Địa điểm: Phường Phú Hòa, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Phu Văn Lâu nằm gần bờ Bắc sông Hương, tại dải đất chạy ngang qua trước mặt Kinh thành và ở ngay trên trục chính của quần thể kiến trúc cố đô Huế: Điện Thái Hòa - Ngọ Môn - Kỳ Đài - Phu Văn Lâu - Nghinh Lương Đình - Hương Giang - Ngự Bình.
Tòa lầu này dùng làm nơi niêm yết các văn bản mà triều đình nhà Nguyễn cần bố cáo cho thần dân được biết: những chiếu chỉ của nhà vua hay bảng kết quả các cuộc thi Hội, thi Đình. Ngoài ra, đây cũng là nơi triều đình tổ chức các cuộc lễ khánh hỷ mang tính quốc gia có sự hiện diện của nhà vua, triều thần và dân chúng.
Theo mọi người thì Phu Văn Lâu dùng để làm gì?
Tại vị trí Phu Văn Lâu trước đây, triều đình (đầu thời Gia Long) đã cho xây một công trình kiến trúc tương đối nhỏ, mang tên Bảng Đình (Đình treo bảng). Đến năm 1819 cũng dưới thời Gia Long được thay thế bằng một tòa nhà hai tầng và đổi tên thành Phu Văn Lâu.
Năm 1843, vua Thiệu Trị cho dựng nhà bia bên tay phải lầu để khắc bài thơ “Hương Giang hiểu phiếm” (Buổi sớm bơi thuyền trên sông Hương).
Trong gần 190 năm tồn tại, Phu Văn Lâu được trùng tu khoảng 10 lần, lần sớm nhất vào năm 1905 (sau cơn bão năm Thìn, 1904, Phu Văn Lâu bị hư hỏng nặng), lần gần đây là vào năm 1994, 1995. Qua nhiều lần trùng tu nhưng về phương diện kết cấu kiến trúc không có gì thay đổi đáng kể.
Phu Văn Lâu là một tòa nhà lầu cao 11,67m, mái lợp ngói ống tráng men vàng (hoàng lưu ly), tòa nhà có 16 cột sơn màu đỏ sậm (4 cột chính xuyên suốt cả hai tầng, 12 cột quân), có hệ thống lan can bao xung quanh, không gian tầng dưới hoàn toàn để trống. Tầng hai, bốn mặt đều dựng đố bản, kiểu đồ lụa khung tranh, hai bên trổ cửa sổ tròn, lan can bên ngoài bằng gỗ, trên của sổ mặt tiền có treo hoành phi sơn son thếp vàng, trang trí dây lá cách điệu “lưỡng long triều nguyệt”. Trong lần tu sửa năm 1974, người ta đã thay thế một số kết cấu gỗ cột, kèo, xuyên bằng xi măng cốt thép.Phu Văn Lâu là một tác phẩm tạo hình xinh đẹp của triều Nguyễn, một di sản đặc sắc trong quần thể kiến trúc Cố đô.
3.Quốc Tử Giám
Địa điểm: Đường 23 tháng Tám, phường Thuận Thành, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trường Quốc Tử giám ở Huế được xây dựng từ thời vua Gia Long, tại địa phận làng An Ninh Thượng, lúc đầu trường ốc còn đơn giản, qua thời Minh Mạng, người đi học ngày càng đông, quy mô của trường được mở rộng.
Vì trường ở khá xa kinh thành, nên năm 1908, triều đình cho dời về gần bên trái Đại Nội như chúng ta thấy hiện nay.
Trường Quốc Tử Giám nằm trên một thửa đất khá rộng, mỗi bề trên dưới 200m. Mặt bằng kiến trúc chia làm hai khu vực (cách nhau bằng đường Lê Trực hiện nay). Giữa khu vực chính (ở trước) là Di Luân Đường. Giữa khu vực phụ phía sau là Tân Thơ viện (thư viện của trường). Hai tòa nhà này vốn trước đây là Minh Trưng Các và Điện Long An nằm trong cung Bảo Định được xây năm 1845 ở bờ Bắc Ngự Hà được dời đến dựng lại ở dây dưới triều Duy Tân (1908, 1909). Hai bên mặt sau Di Luân Đường, xây hai phòng học; hai bên sân trước xây hai dãy cư xá cho học viên. Hai bên Tân Thơ viện dựng hai ngôi nhà dành cho quan Tế Tửu (Hiệu trưởng) và quan Tư Nghiệp (Hiệu phó); trong khu vực còn có mấy ngôi nhà dành cho giáo quan và nhân viên. Hiện nay các công trình kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn.
4. Điện Long An
Điện được xây dựng vào năm 1845, thời vua Thiệu Trị với tên gọi là Điện Long An trong cung Bảo Định, phường Tây Lộc (Huế) làm nơi nghỉ của vua sau khi tiến hành lễ Tịch điền (cày ruộng) mỗi đầu xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu Trị thường hay lui tới, nghỉ ngơi, đọc sách, làm thơ, ngâm vịnh,... Sau khi vua Thiệu Trị qua đời, đây cũng là nơi quàn thi hài của vua trong tám tháng, trước khi làm lễ Ninh lăng (đưa đi an táng). Ngoài nơi thờ chính thức trong Thế Miếu, bài vị của vua Thiệu Trị còn được đưa vào thờ tại điện Long An - nơi ông thường lui tới khi còn sống. Trong thời kỳ thất thủ kinh đô (1885), quân Pháp đã tràn vào ngôi điện, làm mất đi sự tôn nghiêm của một nơi thờ phụng. Vì thế, sau biến cố này, bài vị của vua Thiệu Trị được đưa vào thờ tại điện Phụng Tiên bên trong Đại Nội.
Điện Long An nằm trong tổng thể kiến trúc cung Bảo Định được vua Thiệu Trị cho xây dựng vào năm 1845 ở bờ Bắc sông Ngự Hà (gầncầu Vĩnh Lợi phường Tây Lộc). Hiện nay, điện Long An nằm trên đường Lê Trực, phường Thuận Thành, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Là một di tích trong Quần thể di tích Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11/12/1993.
-
Sở dĩ ngôi điện ở vị trí hiện nay (số 3 Lê Trực, Huế) trong khu vực Thành nội, vì năm 1885, sau trận đánh úp đồn Mang Cá của Pháp do Tôn Thất Thuyết chỉ huy bị thất bại, vua Hàm Nghi và tam cung chạy khỏi Hoàng Thành, ra Quảng Trị. Kinh thành Huế thất thủ, quân Pháp chiếm cung Bảo Định làm sở chỉ huy, lục soát thô bạo điện Long An và tiếp đó ngôi điện bị triệt hạ, vật dụng được xếp vào kho.
Cho đến năm 1909, đời vua Duy Tân, ngôi điện được chuyển ra vị trí mới hiện nay và phục dựng làm Tân Thơ Viện lưu giữ hàng ngàn tư liệu bằng chữ Hán, Pháp, Anh,... chủ yếu phục vụ cho học sinh trường Quốc Tử Giám.
Ngày 24/8/1923, Khâm Sứ Trung kỳ và vua Khải Ðịnh cùng ban sắc dùng Ðiện Long An làm Bảo tàng Khải Ðịnh.
Hiện nay, điện Long An còn gọi là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, là nơi trưng bày cổ vật cung đình Huế
Ðiện Long An hình chữ nhật dài 35,70 m, rộng 28 m, vỉa ốp đá thanh nền cao 1,1 m. Diện tích phần mái rộng đến 1.750 m², nằm trên dàn trò được chống đỡ bằng hệ thống 128 cột gỗ lim. Các liên ba, đồ bản chạm khắc nhiều bài thơ là trước tác của vua Thiệu Trị, được bố trí sắp xếp hầu hết ở các khu vực bên trong ngôi điện một cách hài hòa.
5. Tàng Thư Lâu
Tàng thư lâu là một công trình xây dựng trên hồ Học Hải, Huế vào năm 1825, dùng làm nơi lưu các công văn cũ của cơ quan và lục bộ triều đình nhà Nguyễn. Đây có thể coi là một Tàng Kinh Các của Việt Nam dưới triều Nguyễn lưu trữ các tài liệu văn bản quý hiếm liên quan đến sinh hoạt của triều đình và biến đổi của đất nước.
Triều đình Nguyễn lựa chọn vị trí trên hòn đảo giữa hồ Học Hải với ý đồ cách ly với đất liền, chỉ thông thương bằng một cây cầu. Chính những kỹ thuật sơ khai lúc bấy giờ đã giúp cho Tàng thư lâu lưu trữ rất nhiều tài liệu quý giá lúc bấy giờ trong một khoảng thời gian rất dài. Nhưng cùng với sự chấm dứt của chế độ quân chủ, Tàng thư lâu cũng ngưng hoạt động. Khối lượng tài liệu khổng lồ lưu trữ tại đây cũng bị tiêu tán trong chiến tranh. Hiện nay, công trình này đang được lập hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Nằm ẩn mình trong hồ Học Hải, dọc đường Đinh Tiên Hoàng, nối với sông Ngự Hà và hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu như đang đắm mình cùng thời gian để hoài niệm về quá khứ lịch sử
Xin Chân Thành Cảm Ơn!
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Trương Minh Quốc Thắng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)