LỄ HỘI VIỆT NAM
Chia sẻ bởi Quynh Giao |
Ngày 11/10/2018 |
32
Chia sẻ tài liệu: LỄ HỘI VIỆT NAM thuộc Ngữ văn 8
Nội dung tài liệu:
Các bậc cao niên trong vùng cho biết, xưa kia làng Phong Lệ rộng và lớn lắm. Lớn đến nỗi Phong Lệ phải chia làm hai, Phong Lệ Nam và Phong Lệ Bắc. Vì lớn như vậy, nên nơi đây có hẳn một đình thờ Thần Nông, độc nhất Việt Nam thời bấy giờ và cho đến ngày nay.
Làng Phong Lệ phía nam giáp Trà Kiệu, bắc giáp Sơn Trà, tây giáp núi Chúa và phía đông giáp Ngũ Hành Sơn. Các bậc tiền nhân có công khai phá vùng đất rộng lớn này đặt tên là làng Đà Ly. Đến thời vua Thiệu Trị năm thứ I (1841) đổi tên Đà Ly xã thành làng Phong Lệ, có một chính quyền điều hành. Đời vua Thành Thái thứ 8 (1889 - 1907), vì địa dư quá rộng, cách trở sông đò, đi lại khó khăn... nên Phong Lệ được chia thành hai làng là Phong Lệ Nam và Phong Lệ Bắc. Làng Phong Lệ Nam ở phía nam cầu sông Yên (sông Cầu Đỏ) thuộc tổng Thanh An, phủ Điện Bàn (gồm Bầu Cầu, Đông Hòa, Tây An, Phong Nam - xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang ngày nay). Làng Phong Lệ Bắc ở phía bắc sông Yên thuộc tổng Bình Thái, huyện Hòa Vang (nay là phường Hòa Thọ Đông và Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng). Ngoài ra còn có một khu vực ở phía tây của làng Phong Lệ, dân cư thưa thớt gọi là làng Phong Lệ Tây gồm các thôn Cây Sung, Hội Vực thuộc xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang.
Làng Phong Lệ Nam là đất gốc tích nên có điều kiện phát triển hơn về mọi mặt. Tại đây, nhiều công trình kiến trúc cổ như nhà thờ làng, chùa làng, lăng miếu... đã được xây dựng. Trong đó, tiêu biểu nhất là đình Thần Nông. Mỗi khi có lễ hội, nhân dân, tộc họ làng Phong Lệ Bắc, Phong Lệ Tây mang lễ vật về cúng bái, đông vui như hội... Dân gian có câu: `Lính có đồn, dân có đình`. Ngôi đình được xây dựng trước thời vua Thiệu Trị, gọi là đình Thần Nông. Cấu trúc của đình có ba bộ phận gắn liền nhau, từ ngoài vào trong là nhà Tiền Đường, có gác chiêng, trống, hai bên nhà chính có năm gian... và trong cùng là tẩm. Mái đình lợp ngói âm dương. Trên nóc nhà chính tẩm và các góc đuôi mái đều có đắp tượng Long, Ly, Quy, Phượng, biểu tượng sừng trâu và nhiều họa tiết hoa văn rực rỡ sắc mầu. Cột kèo, xà nhà được chạm trổ tinh vi, trên tường có đắp phù hiệu, ngay giữa nhà chính có đắp tấm biển lớn gắn ba chữ `Phong Lệ Đình` bằng chữ Hán được sơn son thếp vàng, nội tẩm còn có ba chữ `Anh khí chuông` (tức tiếng chuông vang xa) viết bằng chữ Hán cẩn xà cừ. Trong đình còn có các câu liễn đối của các bậc tiền bối ban tặng, được tạc vào gỗ quý vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay:
Đình Thần Nông làng Phong Lệ là nơi tế lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, lúa màu tươi tốt. Đây là ngôi đình có một không hai trong cả nước, gắn liền với lễ hát mục đồng (chữ Mục nghĩa là chăn giữ, điều khiển; chữ Đồng là đứa trẻ - Mục đồng có ngụ ý là trẻ chăn trâu), vì vậy ở đây còn lưu truyền câu ca: `Nhất Phong Lệ mục đồng, nhì Giáng Đông hát vật`. Trong lịch sử, tuy mục đồng là những người chịu nhiều thiệt thòi, bị áp bức, bóc lột, thậm chí nhân phẩm bị chà đạp..., nhưng đã có không ít những nhà khoa bảng, những nhà lãnh đạo yêu nước đầy tâm huyết như Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Nguyễn Chích, Trịnh Khả (danh tướng khởi nghĩa Lam Sơn), Nội tán Đào Duy Từ thời chúa Nguyễn, danh tướng Ông Ích Khiêm, chí sĩ Ông Ích Đường... xuất thân là những Mục đồng. Và dòng họ Ông - một cự tộc có nhiều danh nhân khoa bảng giàu lòng yêu nước đã gắn liền với gốc tích làng Phong le
Đền Thần Nông rêu phong theo thời gian.
Đền Thần Nông, làng Phong Lệ cổ kính rêu phong, tọa lạc trên gò đất cao giữa cánh đồng tốt tươi màu mỡ mà theo thuật phong thủy thì đó là nơi địa lý tiềm long - cản thủy, án ngự tiền đình có Ngũ Hành Sơn, mưu cầu an dân lạc nghiệp.
Kiến trúc nghệ thuật của đình gồm 3 phần gắn liền nhau từ ngoài vào trong là nhà tiền đường, nhà chính 5 gian và trong cùng là tẩm. Mái đình lợp ngói âm dương.
Trên các mái nhà chính đều có đắp long, lân đặc biệt là chiếc sừng trâu được đắp lên cao. Cột kèo xà đình được chạm trỗ tinh vi. Khu giữa hậu tẩm thờ Thần Nông, vị tổ sư của nghề trồng lúa nước phù hộ cho dân làng được mưa thuận
Làng Phong Lệ phía nam giáp Trà Kiệu, bắc giáp Sơn Trà, tây giáp núi Chúa và phía đông giáp Ngũ Hành Sơn. Các bậc tiền nhân có công khai phá vùng đất rộng lớn này đặt tên là làng Đà Ly. Đến thời vua Thiệu Trị năm thứ I (1841) đổi tên Đà Ly xã thành làng Phong Lệ, có một chính quyền điều hành. Đời vua Thành Thái thứ 8 (1889 - 1907), vì địa dư quá rộng, cách trở sông đò, đi lại khó khăn... nên Phong Lệ được chia thành hai làng là Phong Lệ Nam và Phong Lệ Bắc. Làng Phong Lệ Nam ở phía nam cầu sông Yên (sông Cầu Đỏ) thuộc tổng Thanh An, phủ Điện Bàn (gồm Bầu Cầu, Đông Hòa, Tây An, Phong Nam - xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang ngày nay). Làng Phong Lệ Bắc ở phía bắc sông Yên thuộc tổng Bình Thái, huyện Hòa Vang (nay là phường Hòa Thọ Đông và Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng). Ngoài ra còn có một khu vực ở phía tây của làng Phong Lệ, dân cư thưa thớt gọi là làng Phong Lệ Tây gồm các thôn Cây Sung, Hội Vực thuộc xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang.
Làng Phong Lệ Nam là đất gốc tích nên có điều kiện phát triển hơn về mọi mặt. Tại đây, nhiều công trình kiến trúc cổ như nhà thờ làng, chùa làng, lăng miếu... đã được xây dựng. Trong đó, tiêu biểu nhất là đình Thần Nông. Mỗi khi có lễ hội, nhân dân, tộc họ làng Phong Lệ Bắc, Phong Lệ Tây mang lễ vật về cúng bái, đông vui như hội... Dân gian có câu: `Lính có đồn, dân có đình`. Ngôi đình được xây dựng trước thời vua Thiệu Trị, gọi là đình Thần Nông. Cấu trúc của đình có ba bộ phận gắn liền nhau, từ ngoài vào trong là nhà Tiền Đường, có gác chiêng, trống, hai bên nhà chính có năm gian... và trong cùng là tẩm. Mái đình lợp ngói âm dương. Trên nóc nhà chính tẩm và các góc đuôi mái đều có đắp tượng Long, Ly, Quy, Phượng, biểu tượng sừng trâu và nhiều họa tiết hoa văn rực rỡ sắc mầu. Cột kèo, xà nhà được chạm trổ tinh vi, trên tường có đắp phù hiệu, ngay giữa nhà chính có đắp tấm biển lớn gắn ba chữ `Phong Lệ Đình` bằng chữ Hán được sơn son thếp vàng, nội tẩm còn có ba chữ `Anh khí chuông` (tức tiếng chuông vang xa) viết bằng chữ Hán cẩn xà cừ. Trong đình còn có các câu liễn đối của các bậc tiền bối ban tặng, được tạc vào gỗ quý vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay:
Đình Thần Nông làng Phong Lệ là nơi tế lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, lúa màu tươi tốt. Đây là ngôi đình có một không hai trong cả nước, gắn liền với lễ hát mục đồng (chữ Mục nghĩa là chăn giữ, điều khiển; chữ Đồng là đứa trẻ - Mục đồng có ngụ ý là trẻ chăn trâu), vì vậy ở đây còn lưu truyền câu ca: `Nhất Phong Lệ mục đồng, nhì Giáng Đông hát vật`. Trong lịch sử, tuy mục đồng là những người chịu nhiều thiệt thòi, bị áp bức, bóc lột, thậm chí nhân phẩm bị chà đạp..., nhưng đã có không ít những nhà khoa bảng, những nhà lãnh đạo yêu nước đầy tâm huyết như Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Nguyễn Chích, Trịnh Khả (danh tướng khởi nghĩa Lam Sơn), Nội tán Đào Duy Từ thời chúa Nguyễn, danh tướng Ông Ích Khiêm, chí sĩ Ông Ích Đường... xuất thân là những Mục đồng. Và dòng họ Ông - một cự tộc có nhiều danh nhân khoa bảng giàu lòng yêu nước đã gắn liền với gốc tích làng Phong le
Đền Thần Nông rêu phong theo thời gian.
Đền Thần Nông, làng Phong Lệ cổ kính rêu phong, tọa lạc trên gò đất cao giữa cánh đồng tốt tươi màu mỡ mà theo thuật phong thủy thì đó là nơi địa lý tiềm long - cản thủy, án ngự tiền đình có Ngũ Hành Sơn, mưu cầu an dân lạc nghiệp.
Kiến trúc nghệ thuật của đình gồm 3 phần gắn liền nhau từ ngoài vào trong là nhà tiền đường, nhà chính 5 gian và trong cùng là tẩm. Mái đình lợp ngói âm dương.
Trên các mái nhà chính đều có đắp long, lân đặc biệt là chiếc sừng trâu được đắp lên cao. Cột kèo xà đình được chạm trỗ tinh vi. Khu giữa hậu tẩm thờ Thần Nông, vị tổ sư của nghề trồng lúa nước phù hộ cho dân làng được mưa thuận
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Quynh Giao
Dung lượng: 1,15MB|
Lượt tài: 1
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)