Kieu o lau Ngung Bich
Chia sẻ bởi Nguyễn Văn Quân |
Ngày 12/10/2018 |
25
Chia sẻ tài liệu: Kieu o lau Ngung Bich thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
I.Giới thiệu vị trí, bố cục.
1- Vị trí đoạn trích: Sau khi bị MGS lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận c/s lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự tử. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng về nơi tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm trời.
- Đây là đoạn thơ dài 22 câu là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình"miêu tả nỗi buồn nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, trong cảnh sầu, thương, buồn tủi, cô đơn.
2. Kết cấu đoạn thơ
- Sáu câu đầu: hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều
- Tám câu tiếp: nỗi nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng
- Tám câu cuối: tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật
II Phân tích
1. Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của Kiều (6 câu đầu)
- Hai chữ "khoá xuân"cho thấy Kiều ở lầu NB thực chất là bị giam lỏng
- Cảnh thiên nhiên nơi lầu NB:
+ Vẻ non xa, tấm trăng gần
+ Bốn bề bát ngát xa trông
+ Cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm xa
- Kiều trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ 6 chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: "bốn bề bát ngát xa trông". Cảnh "non xa", "trăng gần"như gợi lên hình ảnh lầu NB chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ lầu NB nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu chơi vơi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.
- HÌnh ảnh "non xa", "trăng gần", "cát vàng", "bụi hồng"có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian. Qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
- Cụm từ "mây sớm đèn khuya"gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều thui thủi quê người một thân. Nàng chỉ còn biết làm bạn với "mây sớm đèn khuya". Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối.
- Tâm trạng Kiều: Cô đơn, tủi nhục đau khổ một cách vô vọng (bẽ bàng)… Chỉ còn biết đối diện với "mây sớm đèn khuya", lòng tan nát đau buồn "nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng". Hai nỗi buồn như chia xé tâm hồn nàng. Bốn chữ "như chia tấm lòng"diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát đau thương. Tuy sống giữa một khung cảnh đẹp, êm đềm, có non xa và trăng gần nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
- Nghệ thuật: Không gian NT bao la (cảnh vật mênh mông rộng lớn, rợn ngợp) tương phản với sự đơn độc, trơ trọi, bé nhỏ của con người càng nhấn mạnh tâm trạng cô đơn buồn tủi của TK. Bút pháp NT tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
2. 8 câu tiếp: Nỗi nhớ thương của Kiều
* Đầu tiên Kiều nhớ Kim Trọng. Điều này phù hợp với quy luật tâm lý, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du khi thể hiện khách quan tâm cảnh của Kiều. Nguyễn Du là người ngợi ca thiên diễm tình tự do từ khi chớm nở, sau này khi Kiều lâm nạn, ty dang dở, ông cũng là người thông cảm với những đổ vỡ, tan nát của một mối tình mà trái tim Kiều lúc nào cũng như chảy máu, vì đau thương và hối hận.
Cho nên khi viết về tâm trạng nhớ thương của Kiều, ông đã đặt tình trước hiếu, đảo ngược trật tự của đạo lí pk để K trước hết nghĩ đến người yêu. Mặt khác đối với cha mẹ, K đã bán mình chuộc cha, ơn sinh thành đã có phần được đền đáp, còn đối với người yêu, Kiều vẫn coi mình là kẻ lỗi hẹn, bạc tình, khi MGS làm nhục, lại bị ép phải tiếp khách làng chơi nên nỗi đau nhất của K lúc này là "tấm son gột rửa
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Văn Quân
Dung lượng: 46,00KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)