Khiếp sợ vì SINH VẬT NGOẠI LAI hay vì ...
Chia sẻ bởi Lê Quốc Thắng |
Ngày 05/05/2019 |
36
Chia sẻ tài liệu: Khiếp sợ vì SINH VẬT NGOẠI LAI hay vì ... thuộc Sinh học 7
Nội dung tài liệu:
Sinh vật ngoại lai - mối lo toàn cầu
Những năm gần đây, hàng loạt sinh vật ngoại lai đã có mặt tại VN gây ra những thiệt hại không nhỏ về kinh tế, môi trường và sức khỏe con người như cây mai dương, ốc bươu vàng, chuột hamster... Mới đây là rùa tai đỏ và tôm hùm đỏ được các doanh nghiệp thủy sản nhậu khẩu đã làm tăng mối lo ngại về nguy cơ phá vỡ cân bằng sinh thái khi các loài này thoát ra môi trường. Các sinh vật ngoại lai nguy hiểm có rất nhiều con đường để xâm nhập vào nước ta. Việc đề cao cảnh giác và có biện pháp tiêu diệt, ngăn chặn các sinh vật ngoại lai xâm nhập là vô cùng cần thiết. Lời cảnh báo đối với các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp và người dân về việc vô tình (hay cố ý) đưa sinh vật ngoại lai gây hại vào nước ta.
Sinh vật ngoại lai xâm nhập có thể gây hại đến các loài bản địa thông qua cạnh tranh nguồn thức ăn (động vật); ngăn cản khả năng gieo giống, tái sinh tự nhiên (thực vật) của các loài bản địa do khả năng phát triển nhanh, mật độ dày đặc; cạnh tranh tiêu diệt dần loài bản địa, làm suy thoái hoặc thay đổi để tiến tới tiêu diệt.
Những loài động vật ngoại lai nguy hiểm
http://violet.vn/lequocthang1975
Cóc mía
Năm 1935, loài cóc mía được nhập khẩu từ Hawaii vào Australia để tiêu diệt bọ cánh cứng hại mía. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng trở thành loài vật gây hại và là nỗi kinh hoàng của nước Australia: Môi trường sống thích hợp giúp cóc mía phát triển với tốc độ chóng mặt. Theo số lượng ước tính của các nhà khoa học thì loài động vật này đạt số lượng 200 triệu con năm 2007 và chiếm lĩnh 75 % lãnh thổ Australia vào năm 2008.
Cóc mía có khả năng tàn phá hệ sinh thái nơi chúng cư trú rất cao. Một con cóc mía trưởng thành có kích thước rất lớn (dài hơn 20 cm, nặng gần 1kg) và rất phàm ăn: Chúng ăn thịt tất cả các loại sinh vật mà nó tìm được. Ngoài ra, chúng còn cạnh tranh thức ăn, nơi sinh sản với các loài động vật lưỡng cư bản địa, gây mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng. Chính quyền các bang ở Australia bị cóc mía tàn phá đã phải tuyên chiến với loài động vật này và bang Queensland đã tuyên bố sẽ trao giải thưởng cả triệu USD cho nhà khoa học nào tìm ra chất độc để tiêu diệt hay kìm hãm sự phát triển của cóc mía.
Cóc mía là "nỗi kinh hoàng" của Australia.
Gấu trúc Bắc Mỹ
Gấu trúc Bắc Mỹ được du nhập vào Đức năm 1934 với mục đích nuôi lấy lông. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, loài động vật này đã thoát ra môi trường tự nhiên và phát triển nhất nhanh. Gấu trúc Bắc Mỹ có thể sống được ở mọi nơi: trong rừng, nông trại, ngoại ô, ... Là loài động vật ăn tạp nên từ ếch nhái, cá, chuột, chim, hay các loại quả, hạt cây thậm chí là một số loài rắn đều là nguồn thức ăn của chúng. Xâm nhập vào Đức, gấu trúc sống cả ở các thành phố, thị trấn. Chúng ăn đồ ăn trong thùng rác, ngủ trong ống khói, cống rãnh hay chiếm cứ garage ô tô, gác mái nhà. Một khi đã bị gấu trúc chiếm giữ thì việc đuổi chúng đi là một điều rất khó khăn.
Gấu trúc Bắc Mỹ làm ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống người dân Đức
Cá trê trắng
Cá trê trắng là kẻ thù của nhiều loài cá bản địa vùng Floria.
Cá trê trắng (tên khoa học: Clarias batrachus), là loài cá có nguồn gốc ở Đông Á, trong đó có Việt Nam. Chúng được nuôi để phục vụ nhu cầu thực phẩm. Năm 1960, chúng du nhập vào Florida và nhanh chóng thích nghi, phát triển một cách mạnh mẽ. Cá trê trắng chính là kẻ thù của rất nhiều loại cá bản địa vùng Florida. Đặc biệt vào mùa khô, khi chúng bị dồn tập trung lại trong 1 số các ao hồ thì chúng có khả năng ăn thịt các loài cá bản địa.
Cá vược sông Nile
200 loài cá bản địa vùng hồ Victoria đã bị tuyệt chủng bởi loài cá vược sông Nile.
Năm 1954, cá vược sông Nile được du nhập vào vùng hồ Victoria (hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi, thứ nhì thế giới nằm trong vùng thuộc biên giới các quốc gia Uganda, Kenya và Tanzania, có diện tích 69.000 km², chu vi 3.440 km). Cá vược sông Nile cạnh tranh nguồn thức ăn với các loài cá khác trong hồ Victoria, hạn chế sự phát triển của chúng. Ngoài ra, loài cá này cũng ăn thịt các loài cá khác. Sự xuất hiện của cá vược sông Nile trong môi trường hồ Victoria đã khiến có 200 loài cá bản địa biến mất.
1.Ốc bươu vàng (OBV)
Xuất xứ Nam Mỹ, du nhập vào Việt Nam từ năm 1995, OBV đã trở thành dịch hại lúa và khó phòng trừ nhất ở nước ta. Chúng sống ở nhiều nơi có nước như ao, đầm lầy, đầm sen, kênh mương nước, ruộng lúa; nhờ hệ thống hô hấp đặc biệt: vừa thở được bằng mang dưới nước, vừa thở được bằng phổi trong không khí, nên chúng chịu đựng được điều kiện khắc nghiệt như ô nhiễm, tù đọng thiếu ôxy.
OBV di chuyển rất dễ dàng và nhanh chóng qua con đường nước (sông, kênh mương, nước ngập tràn). Đến năm 1998, 57/64 tỉnh thành và 309/534 huyện trong cả nước đã bị nhiễm OBV; 109 nghìn ha lúa; 3,5 nghìn ha rau muống; 15km2 mặt nước ao hồ, 4 km2 sông rạch đã bị nhiễm OBV. OBV được xác định là loài sinh vật ngoại lai và Chính phủ ta xác định như là dịch hại cây trồng nguy hiểm (đối tượng kiểm dịch nhóm II). Trung bình mỗi năm, OBV “ăn” hết hơn 200.000ha lúa. Ngoài lúa, OBV còn hại tảo, rau muống, khoai sọ, trứng và được ví như máy nghiền vì có thể ăn liên tục trong 24 giờ. Đặc biệt, gần đây chúng còn gặm vỏ cây tràm mới trồng, gây chết cây ở vùng Đồng Tháp Mười.
Trứng ốc bươu vàng
Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata (họ Ampullariidae), có nguồn gốc từ Nam Mỹ (Brazil đến Argentina). Ốc cái có thể sinh sản sau 60-80 ngày tuổi, mỗi lần đẻ 25-500 trứng và có thể đẻ 1.000-1.200 trứng/tháng
2.Cá Hoàng đế ở hồ Trị An:
Nên mừng hay lo?
Có 2 quan điểm trái ngược nhau về tên khoa học của loài cá mới xuất hiện ở Hồ Trị An: cá Hoàng đế (Cichla ocellaris) và cá Vược Mỹ (Micropterus salmoides).
Đặc điểm quan trọng phân biệt 2 loài cá này bằng mắt thường: cá Hoàng đế có 1 chấm đen rất rõ ở mép trên của cuống vi đuôi, vi lưng chia 2 phần rất rõ rệt (phần có gai cứng và phần không có gai cứng), còn cá Vược Mỹ không có chấm đen ở cuống vi đuôi, vi lưng có sự phân chia không rõ rệt. Cá Hoàng đế là loài cá thường ăn những loài cá con nên không được nuôi phổ biến. Đây là loài cá sinh sản quanh năm, có sức sinh sản rất lớn (9–15 ngàn trứng/kg cá). Thời gian sống là 15 tháng (cá Vược Mỹ là 4,5–14 năm). Do đó số lượng cá này sẽ tăng rất nhanh và có sức xâm lấn mạnh về cả thức ăn và môi trường sống nên các loài cá bản địa có thể sẽ giảm đi do không cạnh tranh lại với loài cá này về thức ăn và môi trường sống, làm cho môi trường sinh thái bị thay đổi.
3.Tôm đỏ
Tôm hùm đỏ (tên khoa học Red Swamp Crawfish) trông rất dữ với hai càng to như càng cua dùng để đào hang đẻ trứng, trú đông, tranh giành thức ăn, đấu tranh sinh tồn. Vòng đời ngắn, sinh sản nhanh, có thể di chuyển trên cạn nên khả năng tôm hùm đỏ phát triển tràn lan khi thoát ra ngoài môi trường rất lớn. Ngoài bản tính hung hăng, ăn tạp, tôm hùm đỏ còn có khả năng thích nghi tốt với môi trường nên sẽ là mối đe dọa đối với các loại tôm đang thả nuôi ở Việt Nam.
Sau rùa tai đỏ, lô tôm hùm đỏ được một doanh nghiệp phía Nam nhập khẩu về nuôi khiến mối lo ngại về các loài sinh vật ngoại lai xâm hại gia tăng.
4.Chuột Hamters(Chuột hải ly)
Chuột hải ly được nhập vào Việt Nam những năm cuối TK XX với mục đích làm loài vật nuôi, tạo thu nhập bổ sung cho nông dân do nó cung cấp thịt để ăn, da và lông để xuất khẩu, ruột để sản xuất chỉ tự tiêu. Những con thú cưng này thuộc loài động vật gặm nhấm, sinh sản rất nhanh và có khả năng lây truyền bệnh cho người như: dịch hạch và xoắn khuẩn. Bên cạnh đó nó cũng gây ảnh hưởng đến mùa màng và môi trường sinh thái.
Rất may là được các nhà khoa học cảnh báo sớm, Cục Khuyến nông - Khuyến lâm và Cục Thú y đã hành động kịp thời để ngăn chặn việc nhập loài này vào Việt Nam. Các cơ quan chức năng đã thành lập một tổ công tác giải quyết các vấn đề liên quan đến Chuột hải ly. Hiện loài này đã bị tiêu hủy khoảng 4.000 và loại bỏ khỏi Việt Nam.
Chuột hải ly con 1 ngày tuổi
5.Bọ cánh cứng hại dừa (Bọ ăn lá hại dừa)
Bọ ăn lá hại dừa được phát hiện vào tháng 4/1999 ở tỉnh Bến Tre. Bọ xâm nhập qua con đường nhập khẩu cây cảnh thuộc họ cau dừa dùng làm cảnh và cây cọ dầu từ các nước châu Á. Bọ cũng đã lan tràn khắp đất nước Campuchia. Dịch bọ ăn lá hại dừa bùng phát rất nhanh và chỉ trong vòng hơn một năm (tháng 7/2000) đã lan tràn, gây hại cho hơn 30 tỉnh thành thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Đông Nam bộ và Nam Trung bộ. Đến cuối năm 2003, dịch bọ ăn lá hại dừa đã xuất hiện tại khắp các tỉnh thành trong cả nước, nặng nhất là ở các vùng trồng dừa tập trung ở ĐBSCL và Trung bộ. Tới nay, dịch hại này vẫn còn là mối đe dọa lớn đối với các vùng trồng dừa nước ta.
7.Ốc sên
Có nguồn gốc từ lục địa châu Phi và loài ốc cạn ngoại lai xâm nhập vào Việt Nam những năm 1960, đến nay ốc sên đã trở thành sinh vật gây hại cây trồng cạn từ đồng bằng đến miền núi. Hàng năm vào khoảng tháng 3 là mùa sinh sản của ốc sên. Ở một số nơi như đồng bằng và trung du Bắc bộ, Tây Nguyên, ốc sên đã gây thiệt hại cho các vườn chuối, vườn rau, đậu và các cây trồng khác.
8.Sâu róm thông
Sâu róm thông xâm nhập vào Việt Nam từ những năm 1950 cùng với việc nhập nội và gieo trồng một số giống thông từ Trung Quốc như thông đuôi ngựa. Vào những năm 1965 - 1970, sâu róm thông gây ra những trận dịch lớn đối với rừng thông ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh và trở thành đối tượng gây hại nghiêm trọng. Lông sâu róm là nguyên nhân của một số chứng dị ứng và mẩn ngứa
C.ty Cổ phần nhập khẩu thủy sản Cần Thơ vừa nhập 40 tấn rùa tai đỏ từ Mỹ, hiện nuôi tại Trung tâm giống kỹ thuật thủy sản Caseamex ở xã Phú Thành, h. Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Rùa tai đỏ được nhập vào Việt Nam để nuôi làm cảnh và làm thực phẩm. Hiện rùa tai đỏ đã thoát ra môi trường tự nhiên và lan tràn tại nhiều địa phương như Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Thái Bình... Rùa tai đỏ là loài ăn tạp, thức ăn của chúng thay đổi theo lứa tuổi. Khi nhỏ ăn thịt, lớn hơn chúng ăn thực vật. Đến khi trưởng thành, chúng ăn tạp bất kể động vật hay thực vật: tảo, bèo tấm; các loài thực vật thủy sinh, nòng nọc, cá nhỏ, giáp xác. Khi thoát ra ngoài tự nhiên, chúng đã sinh sôi và phát triển nhanh trong các thủy vực, dẫn đến hiện tượng cạnh tranh quyết liệt với loài rùa bản địa và gây tổn hại đến hệ sinh thái thủy vực, đặc biệt là tính đa dạng sinh học.
9.Rùa tai đỏ
Rùa tai đỏ có xuất xứ từ Bắc Mỹ, tuổi thọ 50-70 năm. Khi thoát ra tự nhiên, sẽ cạnh tranh thức ăn, giao phối với rùa bản địa, dẫn đến lấn áp, ức chế hoặc tiêu diệt các loài sinh vật bản địa, phá vỡ cân bằng sinh thái, được xếp vào danh mục 100 loài xâm hại nguy hiểm nhất thế giới cũng như có khả năng mang vi khuẩn salmonella gây bệnh thương hàn đối với người ...
Rùa tai đỏ, sinh vật ngoại lai đứng đầu danh sách 100 loài gây hại nhất thế giới đã xuất hiện ở VN
từ 10 năm nay.
Trong số các SVNL đã có mặt ở VN, nhiều loại sinh vật đến nay vẫn phát triển dai dẳng mà chưa có cách nào diệt trừ được. Điển hình nhất là cây mai dương (Mimosa pigra), một loài thực vật nguy hiểm có nguồn gốc từ Trung Mỹ. Chúng du nhập vào VN qua tàu bè, gió... Đến nay, cây mai dương đã xuất hiện “hoành hành” khắp nước. Đây là loại cây không kén đất, phát tán nhanh và chưa ở đâu tiêu diệt được. Một khi cây này đã “đóng đô” ở đâu thì lập tức chúng không cho những cây cối nào mọc được nữa (trừ vài loại cỏ lá nhọn rất dễ cháy vào mùa khô) và dần dần xâm lấn và thay thế các thảm thực vật tự nhiên. Vườn quốc gia Tràm Chim, Cát Tiên... đang chịu sự “đô hộ” của loài cây này xâm lấn nhanh và chiếm lĩnh thay thế dần các thảm thực vật tự nhiên, đe dọa sự sống của các loài chim...
.
10.Cây mai dương
Ngoài ra còn có một số loài khác: Bèo Nhật Bản, cây bông ổi (ngũ sắc), bọ cánh cứng hại dừa, bọ phấn thuốc là…
Những sinh vật gây nguy hại cho người dân và môi trường như thế tại sao lại được phép nhập khẩu vào Việt Nam? Các vị khách không mời mà đến đó thường được du nhập bằng con đường nhập khẩu như hàng hóa, quà tặng, lưu niệm, thú cưng mang từ nước ngoài về… Bên cạnh đó chúng còn được phát tán tự nhiên thông qua gió, các loài chim di cư, mưa, bão… và nước dằn tàu (nước dùng để giữ cho tàu ổn định khi di chuyển, chiếm từ 30 – 40 % trọng lượng của tàu).
Nhưng có lẽ quan trọng hơn hết chính là cơ quan đầu não của nước ta lơ là và thiếu cảnh giác trong việc quản lí và nghiên cứu về những độc hại của các sinh vật ngoại lai. Văn bản thì không rõ ràng, cụ thể. Khi có sinh vật mới nhập vào thì lại không có tìm hiểu xem chúng có nguy hại đến môi trường hay không. Cứ thế mà ồ ạt nhập vào miễn thấy cái lợi trước mắt. Sau đó lại chạy đôn chạy đáo tìm cách khắc phục khi nó ảnh hưởng nghiêm trọng. Và cả dân mình nữa, đừng thấy cái gì “ngồ ngộ” và “lời lợi” trước mắt thì đùng đùng kéo nhau đi mua về nuôi và làm kinh tế. Phải thận trọng với tất cả mọi loài sinh vật khi hiện nay có quá nhiều loài ảnh hưởng đến môi trường sinh thái như thế này.
Đôi điều ghi nhận
Những năm gần đây, hàng loạt sinh vật ngoại lai đã có mặt tại VN gây ra những thiệt hại không nhỏ về kinh tế, môi trường và sức khỏe con người như cây mai dương, ốc bươu vàng, chuột hamster... Mới đây là rùa tai đỏ và tôm hùm đỏ được các doanh nghiệp thủy sản nhậu khẩu đã làm tăng mối lo ngại về nguy cơ phá vỡ cân bằng sinh thái khi các loài này thoát ra môi trường. Các sinh vật ngoại lai nguy hiểm có rất nhiều con đường để xâm nhập vào nước ta. Việc đề cao cảnh giác và có biện pháp tiêu diệt, ngăn chặn các sinh vật ngoại lai xâm nhập là vô cùng cần thiết. Lời cảnh báo đối với các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp và người dân về việc vô tình (hay cố ý) đưa sinh vật ngoại lai gây hại vào nước ta.
Sinh vật ngoại lai xâm nhập có thể gây hại đến các loài bản địa thông qua cạnh tranh nguồn thức ăn (động vật); ngăn cản khả năng gieo giống, tái sinh tự nhiên (thực vật) của các loài bản địa do khả năng phát triển nhanh, mật độ dày đặc; cạnh tranh tiêu diệt dần loài bản địa, làm suy thoái hoặc thay đổi để tiến tới tiêu diệt.
Những loài động vật ngoại lai nguy hiểm
http://violet.vn/lequocthang1975
Cóc mía
Năm 1935, loài cóc mía được nhập khẩu từ Hawaii vào Australia để tiêu diệt bọ cánh cứng hại mía. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng trở thành loài vật gây hại và là nỗi kinh hoàng của nước Australia: Môi trường sống thích hợp giúp cóc mía phát triển với tốc độ chóng mặt. Theo số lượng ước tính của các nhà khoa học thì loài động vật này đạt số lượng 200 triệu con năm 2007 và chiếm lĩnh 75 % lãnh thổ Australia vào năm 2008.
Cóc mía có khả năng tàn phá hệ sinh thái nơi chúng cư trú rất cao. Một con cóc mía trưởng thành có kích thước rất lớn (dài hơn 20 cm, nặng gần 1kg) và rất phàm ăn: Chúng ăn thịt tất cả các loại sinh vật mà nó tìm được. Ngoài ra, chúng còn cạnh tranh thức ăn, nơi sinh sản với các loài động vật lưỡng cư bản địa, gây mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng. Chính quyền các bang ở Australia bị cóc mía tàn phá đã phải tuyên chiến với loài động vật này và bang Queensland đã tuyên bố sẽ trao giải thưởng cả triệu USD cho nhà khoa học nào tìm ra chất độc để tiêu diệt hay kìm hãm sự phát triển của cóc mía.
Cóc mía là "nỗi kinh hoàng" của Australia.
Gấu trúc Bắc Mỹ
Gấu trúc Bắc Mỹ được du nhập vào Đức năm 1934 với mục đích nuôi lấy lông. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, loài động vật này đã thoát ra môi trường tự nhiên và phát triển nhất nhanh. Gấu trúc Bắc Mỹ có thể sống được ở mọi nơi: trong rừng, nông trại, ngoại ô, ... Là loài động vật ăn tạp nên từ ếch nhái, cá, chuột, chim, hay các loại quả, hạt cây thậm chí là một số loài rắn đều là nguồn thức ăn của chúng. Xâm nhập vào Đức, gấu trúc sống cả ở các thành phố, thị trấn. Chúng ăn đồ ăn trong thùng rác, ngủ trong ống khói, cống rãnh hay chiếm cứ garage ô tô, gác mái nhà. Một khi đã bị gấu trúc chiếm giữ thì việc đuổi chúng đi là một điều rất khó khăn.
Gấu trúc Bắc Mỹ làm ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống người dân Đức
Cá trê trắng
Cá trê trắng là kẻ thù của nhiều loài cá bản địa vùng Floria.
Cá trê trắng (tên khoa học: Clarias batrachus), là loài cá có nguồn gốc ở Đông Á, trong đó có Việt Nam. Chúng được nuôi để phục vụ nhu cầu thực phẩm. Năm 1960, chúng du nhập vào Florida và nhanh chóng thích nghi, phát triển một cách mạnh mẽ. Cá trê trắng chính là kẻ thù của rất nhiều loại cá bản địa vùng Florida. Đặc biệt vào mùa khô, khi chúng bị dồn tập trung lại trong 1 số các ao hồ thì chúng có khả năng ăn thịt các loài cá bản địa.
Cá vược sông Nile
200 loài cá bản địa vùng hồ Victoria đã bị tuyệt chủng bởi loài cá vược sông Nile.
Năm 1954, cá vược sông Nile được du nhập vào vùng hồ Victoria (hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi, thứ nhì thế giới nằm trong vùng thuộc biên giới các quốc gia Uganda, Kenya và Tanzania, có diện tích 69.000 km², chu vi 3.440 km). Cá vược sông Nile cạnh tranh nguồn thức ăn với các loài cá khác trong hồ Victoria, hạn chế sự phát triển của chúng. Ngoài ra, loài cá này cũng ăn thịt các loài cá khác. Sự xuất hiện của cá vược sông Nile trong môi trường hồ Victoria đã khiến có 200 loài cá bản địa biến mất.
1.Ốc bươu vàng (OBV)
Xuất xứ Nam Mỹ, du nhập vào Việt Nam từ năm 1995, OBV đã trở thành dịch hại lúa và khó phòng trừ nhất ở nước ta. Chúng sống ở nhiều nơi có nước như ao, đầm lầy, đầm sen, kênh mương nước, ruộng lúa; nhờ hệ thống hô hấp đặc biệt: vừa thở được bằng mang dưới nước, vừa thở được bằng phổi trong không khí, nên chúng chịu đựng được điều kiện khắc nghiệt như ô nhiễm, tù đọng thiếu ôxy.
OBV di chuyển rất dễ dàng và nhanh chóng qua con đường nước (sông, kênh mương, nước ngập tràn). Đến năm 1998, 57/64 tỉnh thành và 309/534 huyện trong cả nước đã bị nhiễm OBV; 109 nghìn ha lúa; 3,5 nghìn ha rau muống; 15km2 mặt nước ao hồ, 4 km2 sông rạch đã bị nhiễm OBV. OBV được xác định là loài sinh vật ngoại lai và Chính phủ ta xác định như là dịch hại cây trồng nguy hiểm (đối tượng kiểm dịch nhóm II). Trung bình mỗi năm, OBV “ăn” hết hơn 200.000ha lúa. Ngoài lúa, OBV còn hại tảo, rau muống, khoai sọ, trứng và được ví như máy nghiền vì có thể ăn liên tục trong 24 giờ. Đặc biệt, gần đây chúng còn gặm vỏ cây tràm mới trồng, gây chết cây ở vùng Đồng Tháp Mười.
Trứng ốc bươu vàng
Ốc bươu vàng Pomacea canaliculata (họ Ampullariidae), có nguồn gốc từ Nam Mỹ (Brazil đến Argentina). Ốc cái có thể sinh sản sau 60-80 ngày tuổi, mỗi lần đẻ 25-500 trứng và có thể đẻ 1.000-1.200 trứng/tháng
2.Cá Hoàng đế ở hồ Trị An:
Nên mừng hay lo?
Có 2 quan điểm trái ngược nhau về tên khoa học của loài cá mới xuất hiện ở Hồ Trị An: cá Hoàng đế (Cichla ocellaris) và cá Vược Mỹ (Micropterus salmoides).
Đặc điểm quan trọng phân biệt 2 loài cá này bằng mắt thường: cá Hoàng đế có 1 chấm đen rất rõ ở mép trên của cuống vi đuôi, vi lưng chia 2 phần rất rõ rệt (phần có gai cứng và phần không có gai cứng), còn cá Vược Mỹ không có chấm đen ở cuống vi đuôi, vi lưng có sự phân chia không rõ rệt. Cá Hoàng đế là loài cá thường ăn những loài cá con nên không được nuôi phổ biến. Đây là loài cá sinh sản quanh năm, có sức sinh sản rất lớn (9–15 ngàn trứng/kg cá). Thời gian sống là 15 tháng (cá Vược Mỹ là 4,5–14 năm). Do đó số lượng cá này sẽ tăng rất nhanh và có sức xâm lấn mạnh về cả thức ăn và môi trường sống nên các loài cá bản địa có thể sẽ giảm đi do không cạnh tranh lại với loài cá này về thức ăn và môi trường sống, làm cho môi trường sinh thái bị thay đổi.
3.Tôm đỏ
Tôm hùm đỏ (tên khoa học Red Swamp Crawfish) trông rất dữ với hai càng to như càng cua dùng để đào hang đẻ trứng, trú đông, tranh giành thức ăn, đấu tranh sinh tồn. Vòng đời ngắn, sinh sản nhanh, có thể di chuyển trên cạn nên khả năng tôm hùm đỏ phát triển tràn lan khi thoát ra ngoài môi trường rất lớn. Ngoài bản tính hung hăng, ăn tạp, tôm hùm đỏ còn có khả năng thích nghi tốt với môi trường nên sẽ là mối đe dọa đối với các loại tôm đang thả nuôi ở Việt Nam.
Sau rùa tai đỏ, lô tôm hùm đỏ được một doanh nghiệp phía Nam nhập khẩu về nuôi khiến mối lo ngại về các loài sinh vật ngoại lai xâm hại gia tăng.
4.Chuột Hamters(Chuột hải ly)
Chuột hải ly được nhập vào Việt Nam những năm cuối TK XX với mục đích làm loài vật nuôi, tạo thu nhập bổ sung cho nông dân do nó cung cấp thịt để ăn, da và lông để xuất khẩu, ruột để sản xuất chỉ tự tiêu. Những con thú cưng này thuộc loài động vật gặm nhấm, sinh sản rất nhanh và có khả năng lây truyền bệnh cho người như: dịch hạch và xoắn khuẩn. Bên cạnh đó nó cũng gây ảnh hưởng đến mùa màng và môi trường sinh thái.
Rất may là được các nhà khoa học cảnh báo sớm, Cục Khuyến nông - Khuyến lâm và Cục Thú y đã hành động kịp thời để ngăn chặn việc nhập loài này vào Việt Nam. Các cơ quan chức năng đã thành lập một tổ công tác giải quyết các vấn đề liên quan đến Chuột hải ly. Hiện loài này đã bị tiêu hủy khoảng 4.000 và loại bỏ khỏi Việt Nam.
Chuột hải ly con 1 ngày tuổi
5.Bọ cánh cứng hại dừa (Bọ ăn lá hại dừa)
Bọ ăn lá hại dừa được phát hiện vào tháng 4/1999 ở tỉnh Bến Tre. Bọ xâm nhập qua con đường nhập khẩu cây cảnh thuộc họ cau dừa dùng làm cảnh và cây cọ dầu từ các nước châu Á. Bọ cũng đã lan tràn khắp đất nước Campuchia. Dịch bọ ăn lá hại dừa bùng phát rất nhanh và chỉ trong vòng hơn một năm (tháng 7/2000) đã lan tràn, gây hại cho hơn 30 tỉnh thành thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Đông Nam bộ và Nam Trung bộ. Đến cuối năm 2003, dịch bọ ăn lá hại dừa đã xuất hiện tại khắp các tỉnh thành trong cả nước, nặng nhất là ở các vùng trồng dừa tập trung ở ĐBSCL và Trung bộ. Tới nay, dịch hại này vẫn còn là mối đe dọa lớn đối với các vùng trồng dừa nước ta.
7.Ốc sên
Có nguồn gốc từ lục địa châu Phi và loài ốc cạn ngoại lai xâm nhập vào Việt Nam những năm 1960, đến nay ốc sên đã trở thành sinh vật gây hại cây trồng cạn từ đồng bằng đến miền núi. Hàng năm vào khoảng tháng 3 là mùa sinh sản của ốc sên. Ở một số nơi như đồng bằng và trung du Bắc bộ, Tây Nguyên, ốc sên đã gây thiệt hại cho các vườn chuối, vườn rau, đậu và các cây trồng khác.
8.Sâu róm thông
Sâu róm thông xâm nhập vào Việt Nam từ những năm 1950 cùng với việc nhập nội và gieo trồng một số giống thông từ Trung Quốc như thông đuôi ngựa. Vào những năm 1965 - 1970, sâu róm thông gây ra những trận dịch lớn đối với rừng thông ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh và trở thành đối tượng gây hại nghiêm trọng. Lông sâu róm là nguyên nhân của một số chứng dị ứng và mẩn ngứa
C.ty Cổ phần nhập khẩu thủy sản Cần Thơ vừa nhập 40 tấn rùa tai đỏ từ Mỹ, hiện nuôi tại Trung tâm giống kỹ thuật thủy sản Caseamex ở xã Phú Thành, h. Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Rùa tai đỏ được nhập vào Việt Nam để nuôi làm cảnh và làm thực phẩm. Hiện rùa tai đỏ đã thoát ra môi trường tự nhiên và lan tràn tại nhiều địa phương như Vĩnh Long, Cần Thơ, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Thái Bình... Rùa tai đỏ là loài ăn tạp, thức ăn của chúng thay đổi theo lứa tuổi. Khi nhỏ ăn thịt, lớn hơn chúng ăn thực vật. Đến khi trưởng thành, chúng ăn tạp bất kể động vật hay thực vật: tảo, bèo tấm; các loài thực vật thủy sinh, nòng nọc, cá nhỏ, giáp xác. Khi thoát ra ngoài tự nhiên, chúng đã sinh sôi và phát triển nhanh trong các thủy vực, dẫn đến hiện tượng cạnh tranh quyết liệt với loài rùa bản địa và gây tổn hại đến hệ sinh thái thủy vực, đặc biệt là tính đa dạng sinh học.
9.Rùa tai đỏ
Rùa tai đỏ có xuất xứ từ Bắc Mỹ, tuổi thọ 50-70 năm. Khi thoát ra tự nhiên, sẽ cạnh tranh thức ăn, giao phối với rùa bản địa, dẫn đến lấn áp, ức chế hoặc tiêu diệt các loài sinh vật bản địa, phá vỡ cân bằng sinh thái, được xếp vào danh mục 100 loài xâm hại nguy hiểm nhất thế giới cũng như có khả năng mang vi khuẩn salmonella gây bệnh thương hàn đối với người ...
Rùa tai đỏ, sinh vật ngoại lai đứng đầu danh sách 100 loài gây hại nhất thế giới đã xuất hiện ở VN
từ 10 năm nay.
Trong số các SVNL đã có mặt ở VN, nhiều loại sinh vật đến nay vẫn phát triển dai dẳng mà chưa có cách nào diệt trừ được. Điển hình nhất là cây mai dương (Mimosa pigra), một loài thực vật nguy hiểm có nguồn gốc từ Trung Mỹ. Chúng du nhập vào VN qua tàu bè, gió... Đến nay, cây mai dương đã xuất hiện “hoành hành” khắp nước. Đây là loại cây không kén đất, phát tán nhanh và chưa ở đâu tiêu diệt được. Một khi cây này đã “đóng đô” ở đâu thì lập tức chúng không cho những cây cối nào mọc được nữa (trừ vài loại cỏ lá nhọn rất dễ cháy vào mùa khô) và dần dần xâm lấn và thay thế các thảm thực vật tự nhiên. Vườn quốc gia Tràm Chim, Cát Tiên... đang chịu sự “đô hộ” của loài cây này xâm lấn nhanh và chiếm lĩnh thay thế dần các thảm thực vật tự nhiên, đe dọa sự sống của các loài chim...
.
10.Cây mai dương
Ngoài ra còn có một số loài khác: Bèo Nhật Bản, cây bông ổi (ngũ sắc), bọ cánh cứng hại dừa, bọ phấn thuốc là…
Những sinh vật gây nguy hại cho người dân và môi trường như thế tại sao lại được phép nhập khẩu vào Việt Nam? Các vị khách không mời mà đến đó thường được du nhập bằng con đường nhập khẩu như hàng hóa, quà tặng, lưu niệm, thú cưng mang từ nước ngoài về… Bên cạnh đó chúng còn được phát tán tự nhiên thông qua gió, các loài chim di cư, mưa, bão… và nước dằn tàu (nước dùng để giữ cho tàu ổn định khi di chuyển, chiếm từ 30 – 40 % trọng lượng của tàu).
Nhưng có lẽ quan trọng hơn hết chính là cơ quan đầu não của nước ta lơ là và thiếu cảnh giác trong việc quản lí và nghiên cứu về những độc hại của các sinh vật ngoại lai. Văn bản thì không rõ ràng, cụ thể. Khi có sinh vật mới nhập vào thì lại không có tìm hiểu xem chúng có nguy hại đến môi trường hay không. Cứ thế mà ồ ạt nhập vào miễn thấy cái lợi trước mắt. Sau đó lại chạy đôn chạy đáo tìm cách khắc phục khi nó ảnh hưởng nghiêm trọng. Và cả dân mình nữa, đừng thấy cái gì “ngồ ngộ” và “lời lợi” trước mắt thì đùng đùng kéo nhau đi mua về nuôi và làm kinh tế. Phải thận trọng với tất cả mọi loài sinh vật khi hiện nay có quá nhiều loài ảnh hưởng đến môi trường sinh thái như thế này.
Đôi điều ghi nhận
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Lê Quốc Thắng
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)