DOI NET VE NGAY PHU NU VIET NAM THO TANG ME
Chia sẻ bởi Nguyễn Văn Quyền |
Ngày 12/10/2018 |
18
Chia sẻ tài liệu: DOI NET VE NGAY PHU NU VIET NAM THO TANG ME thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
ĐÔI NÉT VỀ NGÀY PHỤ NỮ VIỆT NAM ( 20 / 10 )
1./ Bài viết về: Công - Dung - Ngôn - Hạnh Ngày xưa địa bàn hoạt động của người phụ nữ rất hẹp, chỉ thu gọn trong gia đình; còn ở ngoài xã hội; quốc gia thì được quan niệm, đó là "việc của đàn ông". Vì cả đời người phụ nữ là lo cho gia đình, nhờ đó, gia đình được quản lý chặc chẻ, tăng thêm sức mạnh đáng kể để trở thành một tế bào của xã hội . Bốn chữ vàng của đạo lý Tứ Đức : Công, Dung , Ngôn, Hạnh, cũng chỉ nên yêu cầu một cách khiêm tốn trong giới hạn cụ thể ấy. Ngày xưa , " Công Dung Ngôn - Hạnh" là một mô hình văn hoá của Nho giáo và là một trong những chuẩn mực của người phụ nữ trong gia đình - thời mà thế giới quan của người phụ nữ chỉ gói gọn trong gia đình. Tuy trong phạm vi hạn hẹp ấy, người phụ nữ như người nữ tướng xông pha trên trận mạc của mình để giữ vững nề nếp gia phong của một gia đình và tăng thêm sức mạnh cho tướng công - là người chồng của mình, ngoài xã hội. " Công", luôn bị đặt dưới cái nhìn phán xét của công luận, người phụ nữ phải biết quán xuyến mọi việc bao quát tất cả mọi mặt lợi ích gia đình, từ việc bếp núc thêu thùa, đến việc quản lý gia nhân, tay hòm chìa khoá đến cách ứng xử thế nào với người trên , kẻ dưới, phù hợp với tư cách và đạo hạnh của người phụ nữ. Đó là công việc chuẩn bị chu đáo của xã hội dành cho chữ Công trong bản lĩnh của người phụ nữ. Việc bếp núc chế biến các món ăn, nay gọi là văn hoá ẩm thực, ngày xưa đó cũng có gọi một chữ Công. Để nắm vững bếp ăn và dinh dưỡng của gia đình, người phụ nữ phải nắm vững tình hình ngôi chợ quê nơi thường đi mua sắm. Mùa nào thức ăn ấy để từ đó chế biến đúng cách những món ăn vừa bổ dưỡng vừa ngon miệng. Một trong những hạnh phúc lớn nhất của người phụ nữ chủ gia đình là nấp sau màn để được nghe khen " Nấu ăn ngon" về những món ăn mà mình đã nấu. Nấu ăn ngon là một cách "lưu danh thiên cổ" của người phụ nữ. Đối với họ, bếp ăn là một hoạ thất, chẳng thế mà người ta nói: " ăn bằng mắt trước khi ăn bằng miệng", dụng cụ nấu ăn được xem là " hoạ cụ" và đồ gia vị được gọi là "đồ màu". Đấy là "cái dụng" của chữ Công trong nghệ thuật sống hạnh phúc của gia đình . Người phụ nữ ngày nay, chữ " Công" được họ đẩy lên một bậc cao hơn, họ không chỉ người phụ nữ đảm đương tốt việc nhà mà còn thể hiện chữ "Công" rất tài tình ngoài xã hội. Họ không còn giới hạn môi trường hoạt động bởi những tố chất sẵn có trong con người luôn thúc đẩy họ hướng đến cái cao đẹp, cái hiện đại theo sự tiến hoá không ngừng của cuộc sống, của nhân loại. Giờ đây họ là những phụ nữ của thời đại mới " giỏi việc nước đảm việc nhà". Chữ " Dung", tạo hoá đã tạo ra người phụ nữ để gắn tên họ cho nhan sắc, đó chính là phái đẹp. Vẻ đẹp không chỉ toát lên từ nét đẹp hình thể mà tâm hồn và sự duyên dáng, chín chắn của người phụ nữ đã thổi hồn vào cái "Dung" ấy . Văn hoá luôn nhắc nhở người phụ nữ rằng mình thuộc về phái đẹp, và xem ý thức " tự hát" ấy như là một biểu hiện của lòng tự trọng. Chứ " Dung" ngăn ngừa phụ nữ xa rời thói ỷ lại vào cái vẻ thiếu nhan sắc của mình để quen với nếp sống buông tuồng, điều mà người phụ nữ xưa đã được giáo dục phải biết che dấu sự già nua của mình một cách tế nhị, không để cho hoàn cảnh "Sinh, lão, bệnh, tử" bày ra trước mặt mọi người . " Dung" không chỉ mang nghĩa sắc đẹp, nó còn được xem là vẻ hình thức bên ngoài thể hiện qua sự khéo léo trong trang phục. Người ta thường nói rằng: "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" . Vì thế người phụ nữ Việt Nam xưa để lòng kính trọng khách, luôn vắt sẳn chiếc áo dàỉ ở cửa, dù trong lúc làm lụng. Để choàng lên vai đón tiếp khách cho kịp. Lời nói vốn là công cụ giao lưu bằng ngôn từ giữa một người với mọi người xung quanh. Vì thế chữ " Ngôn" là cả một nghệ thuật sống. Quả là thiếu sót nghiêm trọng nếu người phụ nữ có tất cả " Công, Dung, Hạnh" mà xao lãng chữ " Ngôn". Lời nói của người phụ nữ không cầu kỳ hoa mỹ mà phải rõ nghĩa và xuất phát từ sự chân thành
1./ Bài viết về: Công - Dung - Ngôn - Hạnh Ngày xưa địa bàn hoạt động của người phụ nữ rất hẹp, chỉ thu gọn trong gia đình; còn ở ngoài xã hội; quốc gia thì được quan niệm, đó là "việc của đàn ông". Vì cả đời người phụ nữ là lo cho gia đình, nhờ đó, gia đình được quản lý chặc chẻ, tăng thêm sức mạnh đáng kể để trở thành một tế bào của xã hội . Bốn chữ vàng của đạo lý Tứ Đức : Công, Dung , Ngôn, Hạnh, cũng chỉ nên yêu cầu một cách khiêm tốn trong giới hạn cụ thể ấy. Ngày xưa , " Công Dung Ngôn - Hạnh" là một mô hình văn hoá của Nho giáo và là một trong những chuẩn mực của người phụ nữ trong gia đình - thời mà thế giới quan của người phụ nữ chỉ gói gọn trong gia đình. Tuy trong phạm vi hạn hẹp ấy, người phụ nữ như người nữ tướng xông pha trên trận mạc của mình để giữ vững nề nếp gia phong của một gia đình và tăng thêm sức mạnh cho tướng công - là người chồng của mình, ngoài xã hội. " Công", luôn bị đặt dưới cái nhìn phán xét của công luận, người phụ nữ phải biết quán xuyến mọi việc bao quát tất cả mọi mặt lợi ích gia đình, từ việc bếp núc thêu thùa, đến việc quản lý gia nhân, tay hòm chìa khoá đến cách ứng xử thế nào với người trên , kẻ dưới, phù hợp với tư cách và đạo hạnh của người phụ nữ. Đó là công việc chuẩn bị chu đáo của xã hội dành cho chữ Công trong bản lĩnh của người phụ nữ. Việc bếp núc chế biến các món ăn, nay gọi là văn hoá ẩm thực, ngày xưa đó cũng có gọi một chữ Công. Để nắm vững bếp ăn và dinh dưỡng của gia đình, người phụ nữ phải nắm vững tình hình ngôi chợ quê nơi thường đi mua sắm. Mùa nào thức ăn ấy để từ đó chế biến đúng cách những món ăn vừa bổ dưỡng vừa ngon miệng. Một trong những hạnh phúc lớn nhất của người phụ nữ chủ gia đình là nấp sau màn để được nghe khen " Nấu ăn ngon" về những món ăn mà mình đã nấu. Nấu ăn ngon là một cách "lưu danh thiên cổ" của người phụ nữ. Đối với họ, bếp ăn là một hoạ thất, chẳng thế mà người ta nói: " ăn bằng mắt trước khi ăn bằng miệng", dụng cụ nấu ăn được xem là " hoạ cụ" và đồ gia vị được gọi là "đồ màu". Đấy là "cái dụng" của chữ Công trong nghệ thuật sống hạnh phúc của gia đình . Người phụ nữ ngày nay, chữ " Công" được họ đẩy lên một bậc cao hơn, họ không chỉ người phụ nữ đảm đương tốt việc nhà mà còn thể hiện chữ "Công" rất tài tình ngoài xã hội. Họ không còn giới hạn môi trường hoạt động bởi những tố chất sẵn có trong con người luôn thúc đẩy họ hướng đến cái cao đẹp, cái hiện đại theo sự tiến hoá không ngừng của cuộc sống, của nhân loại. Giờ đây họ là những phụ nữ của thời đại mới " giỏi việc nước đảm việc nhà". Chữ " Dung", tạo hoá đã tạo ra người phụ nữ để gắn tên họ cho nhan sắc, đó chính là phái đẹp. Vẻ đẹp không chỉ toát lên từ nét đẹp hình thể mà tâm hồn và sự duyên dáng, chín chắn của người phụ nữ đã thổi hồn vào cái "Dung" ấy . Văn hoá luôn nhắc nhở người phụ nữ rằng mình thuộc về phái đẹp, và xem ý thức " tự hát" ấy như là một biểu hiện của lòng tự trọng. Chứ " Dung" ngăn ngừa phụ nữ xa rời thói ỷ lại vào cái vẻ thiếu nhan sắc của mình để quen với nếp sống buông tuồng, điều mà người phụ nữ xưa đã được giáo dục phải biết che dấu sự già nua của mình một cách tế nhị, không để cho hoàn cảnh "Sinh, lão, bệnh, tử" bày ra trước mặt mọi người . " Dung" không chỉ mang nghĩa sắc đẹp, nó còn được xem là vẻ hình thức bên ngoài thể hiện qua sự khéo léo trong trang phục. Người ta thường nói rằng: "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" . Vì thế người phụ nữ Việt Nam xưa để lòng kính trọng khách, luôn vắt sẳn chiếc áo dàỉ ở cửa, dù trong lúc làm lụng. Để choàng lên vai đón tiếp khách cho kịp. Lời nói vốn là công cụ giao lưu bằng ngôn từ giữa một người với mọi người xung quanh. Vì thế chữ " Ngôn" là cả một nghệ thuật sống. Quả là thiếu sót nghiêm trọng nếu người phụ nữ có tất cả " Công, Dung, Hạnh" mà xao lãng chữ " Ngôn". Lời nói của người phụ nữ không cầu kỳ hoa mỹ mà phải rõ nghĩa và xuất phát từ sự chân thành
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Nguyễn Văn Quyền
Dung lượng: 128,50KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)