Đề thi khảo sát đầu năm 2010-2011
Chia sẻ bởi Ngô Thanh Sang |
Ngày 12/10/2018 |
37
Chia sẻ tài liệu: Đề thi khảo sát đầu năm 2010-2011 thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
UBND HUYỆN THÁP MƯỜI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
KỲ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 9 VÒNG HUYỆN
NĂM HỌC 2010 – 2011
Hướng dẫn chấm môn ngữ văn
1/ Yêu cầu đề:
a/ Về kiểu văn bản:
- Thí sinh phải trình bày được kiểu văn nghị luận (yếu tố nghị luận được kết hợp giữa phân tích, lập luận, chứng minh, giải thích và các phương thức biểu đạt khác) nhằm tạo cho văn bản thêm sinh động, hấp dẫn, làm nổi bật nội dung theo yêu cầu của đề.
- Hình thức trình bày: đảm bảo các yêu cầu về bố cục, thể thức văn bản của văn bản nghị luận; lời văn lập luận chặt chẽ, hợp lý; dẫn chứng phù hợp, sinh động, có sức thuyết phục người đọc.
b/ Về nội dung:
Bài thơ thuộc loại thơ tượng trưng, học sinh có thể trình bày cách cảm nhận từ nhiều hướng khác nhau, (đặc biệt là việc khai thác các hình ảnh trong thơ có tính biểu tượng). Giáo viên căn cứ vào nội dung cơ bản cần có theo yêu cầu của đề để chấm điểm. Hướng dẫn chấm dưới đây chỉ là một cách tiếp cận.
Nguyễn Duy là nhà thơ quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thế hệ của nhà thơ từng trải qua bao gian khổ, thử thách, chứng kiến bao hy sinh lớn lao của nhân dân, đồng đội, từng gắn bó với thiên nhiên, núi rừng, tình nghĩa… Đất nước được thống nhất, sống trong cảnh hòa bình giữa phố phường hiện đại, không phải ai cũng nhớ những gian nan, những kỷ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy trước cái điều vô tình dễ có ấy.
Bài thơ trình bày theo dòng chảy của cảm xúc, sự kết hợp giữa yếu tố tự sự với trữ tình chứa đựng sự suy ngẫm, triết lý sâu sắc, đánh thức con người về lòng chung thủy, về thái độ sống.
Bài thơ viết theo thể thơ 5 chữ, đậm chất văn xuôi trữ tình (6 khổ thơ, mỗi khổ thơ như một câu văn dài). Cả bài thơ như một câu chuyện được sắp xếp theo dòng thời gian và trình tự của dòng cảm xúc.
- Nhà thơ chọn điểm nhìn từ thực tại hướng về quá khứ để suy ngẫm. Nhịp điệu ba khổ thơ đầu chậm rãi, giọng điệu như lời tỏ bày, lời kể.
+ Quá khứ được chọn là không gian ở hai thời điểm. "Hồi nhỏ": cuộc sống hiện ra rất thân thuộc, gần gủi, hình ảnh: cánh đồng, con sông, bể; “hồi chiến tranh”: cuộc sống người lính gắn với rừng, với vầng trăng. Hình ảnh vầng trăng trở nên thân thuộc hơn bao giờ hết …
+ Cuộc sống con người gần với thiên nhiên thật là thú vị, rất hồn nhiên, không toan tính. "trần trụi với thiên nhiên", "hồn nhiên như cây cỏ". Tình cảm ấy gắn bó keo sơn một thời ấy tưởng chừng như không bao giờ quên được: “ngỡ không bao giờ quên - cái vầng trăng tình nghĩa". Vầng trăng được nhân hóa, là biểu tượng chính trong bài thơ mang nhiều ý nghĩa khác nhau: Con người nghĩa tình, lòng chung thủy son sắt của tình quân dân, ân tình, .. . Vầng trăng còn là biểu tượng cho cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, luôn gắn bó với người lính. Nguyễn Duy gọi là “cái vầng trăng tình nghĩa” với một thái độ rất trân trọng;
Có thể nâng cao trong lập luận: từ “ngỡ” ở thời hiện tại trong bài thơ như một sự xác nhận (tưởng chừng như), nhưng rõ ràng trong “hiện tại của quá khứ”, nó được xác nhận có ý nghĩa như một sự khẳng định, (đinh ninh) mà cả nhân vật trữ tình (nhà thơ) và nhân vật tri kỷ (thiên nhiên, trăng…) đều nhận thức được sự hòa hợp, gắn bó đó là một tình cảm sâu sắc không quên được.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả bộc lộ cảm xúc của mình như một lời tự bộc bạch, tự phán xét mình khi nghĩ về quá khứ: “cái vầng trăng tình nghĩa” kia giờ đây chỉ: “như người dưng qua đường”. Hai câu thơ ở hai khổ thơ khác nhau, diễn đạt hai ý nghĩa tương phản nhau đã nói lên được ít nhiều sự biến đổi trong tình cảm con người. Đó cũng chính là điều mà nhà thơ trăn trở.
Khổ thơ thứ tư, nhịp điệu đột ngột nhanh, thể hiện ngỡ ngàng, diễn tả sự bất thường diễn ra "Thình lình đèn điện tắt - phòng buyn - đinh tối om". Chính cái bất thường ấy là một bước ngoặt để nhà thơ bộc lộ cảm xúc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
KỲ THI HỌC SINH GIỎI LỚP 9 VÒNG HUYỆN
NĂM HỌC 2010 – 2011
Hướng dẫn chấm môn ngữ văn
1/ Yêu cầu đề:
a/ Về kiểu văn bản:
- Thí sinh phải trình bày được kiểu văn nghị luận (yếu tố nghị luận được kết hợp giữa phân tích, lập luận, chứng minh, giải thích và các phương thức biểu đạt khác) nhằm tạo cho văn bản thêm sinh động, hấp dẫn, làm nổi bật nội dung theo yêu cầu của đề.
- Hình thức trình bày: đảm bảo các yêu cầu về bố cục, thể thức văn bản của văn bản nghị luận; lời văn lập luận chặt chẽ, hợp lý; dẫn chứng phù hợp, sinh động, có sức thuyết phục người đọc.
b/ Về nội dung:
Bài thơ thuộc loại thơ tượng trưng, học sinh có thể trình bày cách cảm nhận từ nhiều hướng khác nhau, (đặc biệt là việc khai thác các hình ảnh trong thơ có tính biểu tượng). Giáo viên căn cứ vào nội dung cơ bản cần có theo yêu cầu của đề để chấm điểm. Hướng dẫn chấm dưới đây chỉ là một cách tiếp cận.
Nguyễn Duy là nhà thơ quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thế hệ của nhà thơ từng trải qua bao gian khổ, thử thách, chứng kiến bao hy sinh lớn lao của nhân dân, đồng đội, từng gắn bó với thiên nhiên, núi rừng, tình nghĩa… Đất nước được thống nhất, sống trong cảnh hòa bình giữa phố phường hiện đại, không phải ai cũng nhớ những gian nan, những kỷ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy trước cái điều vô tình dễ có ấy.
Bài thơ trình bày theo dòng chảy của cảm xúc, sự kết hợp giữa yếu tố tự sự với trữ tình chứa đựng sự suy ngẫm, triết lý sâu sắc, đánh thức con người về lòng chung thủy, về thái độ sống.
Bài thơ viết theo thể thơ 5 chữ, đậm chất văn xuôi trữ tình (6 khổ thơ, mỗi khổ thơ như một câu văn dài). Cả bài thơ như một câu chuyện được sắp xếp theo dòng thời gian và trình tự của dòng cảm xúc.
- Nhà thơ chọn điểm nhìn từ thực tại hướng về quá khứ để suy ngẫm. Nhịp điệu ba khổ thơ đầu chậm rãi, giọng điệu như lời tỏ bày, lời kể.
+ Quá khứ được chọn là không gian ở hai thời điểm. "Hồi nhỏ": cuộc sống hiện ra rất thân thuộc, gần gủi, hình ảnh: cánh đồng, con sông, bể; “hồi chiến tranh”: cuộc sống người lính gắn với rừng, với vầng trăng. Hình ảnh vầng trăng trở nên thân thuộc hơn bao giờ hết …
+ Cuộc sống con người gần với thiên nhiên thật là thú vị, rất hồn nhiên, không toan tính. "trần trụi với thiên nhiên", "hồn nhiên như cây cỏ". Tình cảm ấy gắn bó keo sơn một thời ấy tưởng chừng như không bao giờ quên được: “ngỡ không bao giờ quên - cái vầng trăng tình nghĩa". Vầng trăng được nhân hóa, là biểu tượng chính trong bài thơ mang nhiều ý nghĩa khác nhau: Con người nghĩa tình, lòng chung thủy son sắt của tình quân dân, ân tình, .. . Vầng trăng còn là biểu tượng cho cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, luôn gắn bó với người lính. Nguyễn Duy gọi là “cái vầng trăng tình nghĩa” với một thái độ rất trân trọng;
Có thể nâng cao trong lập luận: từ “ngỡ” ở thời hiện tại trong bài thơ như một sự xác nhận (tưởng chừng như), nhưng rõ ràng trong “hiện tại của quá khứ”, nó được xác nhận có ý nghĩa như một sự khẳng định, (đinh ninh) mà cả nhân vật trữ tình (nhà thơ) và nhân vật tri kỷ (thiên nhiên, trăng…) đều nhận thức được sự hòa hợp, gắn bó đó là một tình cảm sâu sắc không quên được.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả bộc lộ cảm xúc của mình như một lời tự bộc bạch, tự phán xét mình khi nghĩ về quá khứ: “cái vầng trăng tình nghĩa” kia giờ đây chỉ: “như người dưng qua đường”. Hai câu thơ ở hai khổ thơ khác nhau, diễn đạt hai ý nghĩa tương phản nhau đã nói lên được ít nhiều sự biến đổi trong tình cảm con người. Đó cũng chính là điều mà nhà thơ trăn trở.
Khổ thơ thứ tư, nhịp điệu đột ngột nhanh, thể hiện ngỡ ngàng, diễn tả sự bất thường diễn ra "Thình lình đèn điện tắt - phòng buyn - đinh tối om". Chính cái bất thường ấy là một bước ngoặt để nhà thơ bộc lộ cảm xúc
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Ngô Thanh Sang
Dung lượng: 44,00KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)