Chuyen de toan

Chia sẻ bởi Lê Thanh Thịnh | Ngày 03/05/2019 | 33

Chia sẻ tài liệu: Chuyen de toan thuộc Toán học 5

Nội dung tài liệu:

Xu hướng ứng dụng CNTT&TT trong dạy học toán ở tiểu học
1.1. Khái niệm về CNTT &TT trong dạy học:
CNTT&TT là một tập hợp đa dạng các công cụ và tài nguyên công nghệ được sử dụng để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lí thông tin.
Công nghệ này bao gồm:
Máy tính và các phần mềm
Internet, công nghệ truyền thông ( phát thanh, truyền hình, điện thoại,…..)
Xu hướng ứng dụng CNTT&TT trong dạy học ở tiểu học:
Ngày nay, sự phát triển có tính chất bùng nỗ của CNTT&TT đã làm cho việc đưa tin học vào nhà trường trở thành một trào lưu mạnh mẽ, thể hiện qua hai hướng:
a) Đưa một số vấn đề về tin học cơ bản như là một môn học trong nhà trường phổ thông;
b) Sử dụng CNTT & TT trong quá trình dạy học như là một công cụ hỗ trợ để đẩy mạnh đổi mới PPDH nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
Ở nước ta, xu hướng ứng dụng CNTT&TT như là một công cụ hỗ trợ trong dạy học đã trở thành một chính sách của Đảng và Nhà nước. Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị đã khẳng định:” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT&TT trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy vi tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối internet tới tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo”
Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ trưởng Bộ GD cũng đã chỉ rõ:”Đẩy mạnh ứng dụng CNTT&TT trong GD&ĐT ở tất cả các cấp học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT&TT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở tất cả các môn học”.
Ở tiểu học, những xu hướng này cũng đã được thể hiện rõ, đó là HS được học một số kiến thức tin học cơ bản, ban đầu về tin học, đồng thời theo các chỉ thị nêu trên thì hiện nay việc ứng dụng CNTT&TT trong dạy học như là công cụ, phương tiện để thực hiện đổi mới PPDH theo hướng lấy HS làm trung tâm cũng đã được quan tâm đáng kể. Hiện nay, có thể thấy, việc ứng dụng CNTT&TT theo hướng này trong dạy học toán ở tiểu học tập trung vào những nội dung sau:
- Khai thác các nguồn tài nguyên có sẵn: các đồ dùng dạy học được thiết kế bởi phần mềm, các GAĐT được thử nghiệm và vận dụng vào thực tiễn dạy học ở nhà trường tiểu học.
Sử dụng CNTT&TT để xây dựng, thiết kế các đồ dùng dạy học, các giáo án điện tử hỗ trợ cho việc tổ chức các hoạt động dạy học toán ở tiểu học.
1.3. Những vai trò, hạn chế của việc sử dụng CNTT&TT trong dạy học:
1.3.1. Những vai trò chính:
a) Dạy học với sự hỗ trợ CNTT&TT đảm bảo tính cá thể hoá cao độ
Dạy học cá thể hoá là một trong những nguyên tắc quan trọng của lý luận dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. Máy tính điện tử cùng các sản phẩm CNTT&TT có khả năng mô phỏng kiến thức cần trình bày phù hợp với trình độ học tập của từng HS. Khi ngồi trước máy tính điện tử, HS có cơ hội được thể hiện các ý tưởng, suy nghĩ của mình và hành động, thao tác trực tiếp trên màn hình máy vi tính. Máy tính điện tử làm việc với HS theo tiến độ riêng của từng em, thông báo cho các em những thông tin về các hoạt động của mình và “ hết lòng” với nhu cầu riêng của từng HS.
b) CNTT&TTcó thể cung cấp một khối lượng lớn các đồ dùng, hình ảnh trực quan hoặc các bài tập luyện tập từ đơn giản đến phức tạp.
CNTT&TT cho phép tạo ra các hình ảnh, các đồ dùng trực quan động, có tính thẩm mỹ cao. Với sự phát triển của mạng internet, CNTT&TT còn cho phép kết nối, truy cập và tải những hình ảnh động phong phú đa dạng. Người ta có thể thiết kế trên phần mềm hoặc lập chương trình dạy học, đưa vào máy tính điện tử các mô hình, các bài tập để giúp đỡ HS học tập.
HS thực hành, thao tác trực tiếp trên máy vi tính để nắm bắt các kiến thức mới, đồng thời luyện tập, kiểm tra kiến thức của mình. Các em được làm đi làm lại nhiều lần với những hình ảnh, ví dụ minh hoạ, bài tập tương tự. Đồng thời máy tính điện tử cũng tạo điều kiện cho HS rèn luyện và phát triển tư duy sáng tạo trong quá trình thể hiện các ý tưởntg của mình bằng hoạt động thực hành thao tác trên các đồ dùng trực quan hoặc thông qua việc giải các bài tập nâng cao.
c) CNTT&TT tạo ra môi trường tương tác, giao lưu thân thiện giữa HS với máy tính, giữa HS với HS và giữa HS với GV.
Khi tương tác với máy tính điện tử, HS hoàn toàn chủ động điều khiển được hoạt động của mình. Máy tính không hề “ bực tức” với HS mà ngược lại, còn khen ngợi HS khi các em thực hiện đúng nhiệm vụ học tập. Máy tính điện tử không hề làm các em ngại ngùng khi thao tác sai mà còn rất kiên nhẫn, cho phép các em thực hiện đi thực hiện lại nhiều lần.
Bên cạnh đó, máy tính điện tử cũng tạo cơ hội để HS giao lưu trao đổi với bạn mình và với GV. Khi gặp những nội dung khó, HS có thể trao đổi, thảo luận với bạn của mình để cùng đề xuất giải pháp, cùng thử nghiệm và thống nhất kết quả. Các em cũng có thể trao đổi với GV về những điều mình tiếp nhận biết được.
d) CNTT&TT góp phần đổi mới công việc giảng dạy của GV:
Ngay từ khi bắt đầu được đưa vào sử dụng trong dạy và học, máy tính điện tử đã hứa hẹn những thành công trong việc giúp đỡ GV truyền tải kiến thức và phát triển các kĩ năng cho người học. Máy tính điện tử cùng với các sản phẩm CNTT&TT, cung cấp cho GV các nguồn phương tiện trực quan phong phú, đa dạng, tạo điều kiện cho GV tìm tòi, suy nghĩ, thiết kế các kế hoạch dạy học, cải tiến bài dạy; giúp GV khai thác được tối đa khả năng vận dụng các PPDH theo hướng đổi mới, tổ chức tốt các hình thức dạy học ( cá nhân, nhóm, tổ chức trò chơi,…), đồng thời hỗ trợ GV gia tăng giá trị lượng thông tin đến HS, hình thành nhiều kênh trao đổi thông tin hai chiều giữa GV và HS.
e) CNTT&TT góp phần đổi mới kiểm tra, đánh giá
Học tập với máy tính điện tử giúp người học lưu giữ và kiểm tra những suy nghĩ, phán đoán, nhận xét của mình, kịp thời đưa ra những thông tin phản hồi như những câu trả lời, những hướng dẫn, những câu hỏi phụ,…nhờ vậy mà người học có thể điều chỉnh hoạt động học tập của mình cho phù hợp hơn. CNTT&TT cũng cho phép GV có thể thiết kế, biên soạn các đề kiểm tra, kiểm định các đáp án, đổi mới cách thức tổ chức kiểm tra và đánh giá các kết quả học tập của HS. Cùng với các phần mềm kiểm tra đánh giá, máy tính điện tử giúp GV biên sọan và quản lý đáp án ngân hàng các câu hỏi trắc nghiệm, giao đề tới HS một cách ngẫu nhiên và cho phép các em tiến hành làm bài độc lập trên máy tính.
Máy tính cũng giúp GV lưu dữ liệu bài làm của HS và xử lý kết quả nhanh chóng, chính xác. Trong một tương lai không xa, khi mà mạng internet và hệ thống máy tính phổ biến ở khắp mọi nơi thì các bài học, bài tập, bài kiểm tra được gửi và nhận dưới dạng các thư điện tử, Như vậy thông qua việc cung cấp thông tin, việc kiểm tra liên tục, lưu trữ và xử lý các kết quả thì máy tính điện tử được xem là một phương tiện có nhiều thế mạnh hơn các phương tiện truyền thông khác, luôn đảm bảo mối liên hệ ngược trong, ngược ngoài, điều khiển và điều chỉnh hoạt động học tập của người học.
f) CNTT&TT góp phần đổi mới PPDH
Với những ưu điểm nói trên thì có thể thấy rằng, CNTT&TT có những tác động mạnh mẽ, tích cực đối với việc đổi mới PPDH, sử dụng CNTT&TT trong dạy học, PPDH cũng thay đổi theo. Việc giảng dạy bằng máy tính thực sự đơn giản và tiện ích, ít tốn kém nhưng khả năng phát huy tính tích cực của HS trong giờ học lại đạt kết quả cao. Các hình thức sử dụng hình ảnh động, biểu bảng, sơ đồ trong giảng dạy linh hoạt, phong phú cho phép GV dẫn dắt HS đi từ các chi tiết cụ thể đến khái quát và ngược lại. GV là người hướng dẫn HS học tập chứ không đơn thuần là rót thông tin vào đầu HS. Còn HS có thể lựa chọn thông tin từ nhiều nguồn phong phú như sách, mạng internet,…và biết đánh giá thông tin chứ không đơn thuần là nhận thông tin một cách thụ động.
1.3.2 Các hạn chế
a) Công việc lập trình các chương trình hỗ trợ dạy học gặp nhiều khó khăn
Chất lượng dạy học với máy tính điện tử phụ thuộc vào các sản phẩm của CNTT&TT mà đặc biệt là các PMDH. Việc lập trình trên các phần mềm này để hỗ trợ trong dạy học thường là một công việc khó đối với các nhà GD, với các GV đứng lớp. Trong khi đó các chuyên gia tin học có khả năng lập trình cao nhưng lại khó tạo ra những sản phẩm có tính GD hiệu quả. Khoảng cách giữa nhà sư phạm và nhà lập trình đã khiến chất lượng các PMDH chưa đáp ứng tốt các yêu cầu dạy học với máy tính điện tử.
Vì vậy Cần có sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ giữa nhà sư phạm và nhà lập trình để tạo nên những sản phẩm có chất lượng và hiệu quả hơn. Nhà sư phạm sẽ đưa ra ý tưởng, nhà lập trình sẽ biến ý tưởng đó thành các sản phẩm GD.
b) Việc chuẩn bị cho một tiết dạy có sử dụng CNTT&TT tốn nhiều thời gian
Đây là một trong những khó khăn khiến GV có tâm lý e ngại sử dụng CNTT&TT trong dạy học. Việc tổ chức DH có sử dụng CNTT&TT đòi hỏi GV phải có sự chuẩn bị bài dạy thật kĩ càng cả nội dung dạy học lẫn kỹ thuật máy tính. Hơn nữa khi lên lớp, cần phải có sự chuẩn bị trước cả hệ thống máy vi tính, máy chiếu, cài đặt chương trình,…
Những công việc này là không khó và hoàn toàn có thể làm được nhưng khiến GV mất nhiều thời gian. Để khắc phục nhược điểm này, cần phải có một phòng đa chức năng cài đặt sẵn hệ thống mạng nội bộ, lắp đặt máy chiếu cố định, trang bị sẵn những chương trình, PMDH cần sử dụng.
c) Việc thực hiện và quản lý các thao tác của HS khi hoạt động trên máy tính điện tử gặp nhiều khó khăn
Vẫn còn những đối tượng GV chưa có nhiều kĩ năng làm việc trên các PMDH, vì vậy họ gặp không ít khó khăn khi thiết kế và thực hiện các nội dung dạy học. Hơn nữa khi sử dụng máy tính điện tử trong dạy học, việc kiểm soát các hoạt động, thao tác của HS cũng gặp phải những khó khăn nhất định. HS lứa tuổi tiểu học rất hiếu động, tò mò, các em dễ bị cuốn hút bởi các hình ảnh động, đẹp mắt trên màn hình mà không chú ý và tuân thủ theo nội quy thực hành thao tác trên máy vi tính của GV. Vì vậy, khi lên lớp, để HS tập trung được vào nội dung bài dạy, GV cần yêu cầu HS tuân thủ nội quy sử dụng máy tính và nghiêm khắc phê bình những HS vi phạm.
2.1. Khái niệm về PMDH
Phần mềm tin học là một chương trình chạy trên máy tính để xử lý thông tin. Phần mềm tin học được sử dụng trong dạy học gọi là PMDH. Như vậy, PMDH là một phần mềm được sử dụng trong quá trình dạy học của GV và HS, có sự hỗ trợ của máy vi tính.
PMDH có nội dung, cách tiếp cận, giao diện và sự cung cấp tài liệu đều phải tính đến nhu cầu của GV và HS. PMDH đóng vai trò vừa là một phương tiện truyền tải thông tin vừa là nội dung thông tin bao gồm các kênh hình ( tỉnh và động), kênh chữ, kênh âm thanh phong phú, sinh động, hấp dẫn. PMDH là một phương tiện dạy học ở cấp độ cao hơn so với các loại phương tiện dạy học trực quan khác, tạo nhiều điều kiện và cơ hội để hình thành ở HS các năng lực học tập, làm việc, sống và thích nghi với môi trường xã hội hiện đại, thực hiện đổi mới căn bản về PPDH, PPGD.
2.2. Một số yêu cầu sư phạm đối với PMDH
a) Phù hợp với chương trình nội dung SGK
Tương ứng với cấu trúc chương trình và SGK môn học, đảm bảo thực hiện mục tiêu trong từng chương,mục của chương trình và nội dung SGK.
Hình thức trình bày tương thích với nội dung SGK, đồng thời có tác dụng bổ sung làm đa dạng hóa các kiến thức trong chương trình.
b) PMDH phải đảm bảo minh hoạ các yếu tố trực quan
Phải tạo điều kiện cho phép thiết kế những hình ảnh, đồ dùng minh họa trực quan khoa học thẩm mỹ; có thể tạo các trình diễn động hoặc tạo các mô hình động tích cực để tác động vào hứng thú học tập của HS, giúp các em lĩnh hội kiến thức nhanh chóng, sâu sắc hơn.
c) PMDH phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của HS
Ở lứa tuổi tiểu học, lứa tuổi học mà chơi, chơi mà học, HS rất tò mò, hiếu động. Sự hứng thú, khả năng tập trung chú ý của HS thường được kích thích, tăng nhiều bởi những hình ảnh động, đẹp mắt. Vì vậy các PMDH cần đảm bảo có những minh họa trực quan hài hòa phong phú, có tính năng hoạt hình, động tích cực, có thể tạo ra những trò chơi giúp HS thoải mái, được thư giản và đồng thời qua đó để các em hình thành các kiến thức mới hoặc rèn luyện các kĩ năng toán học.
Thực tế dạy học cho thấy, khi được học tập trên máy vi tính, HS cảm thấy hào hứng hơn, nhanh nhẹn, năng động hơn, tích cực tham gia phát biểu các ý kiến, nhận xét hơn.
d) PMDH phải phù hợp với quan điểm phát huy tính tích cực của HS trong học tập
PMDH có khả năng tạo ra các môi trường toán học có vấn đề. Khi HS tương tác với môi trường này sẽ có cơ hội để nghi vấn, đặt câu hỏi và tìm cách trả lời các câu hỏi đó. Trong môi trường này, HS luôn ở trạng thái hỏi- tìm để không ngừng kiến tạo nên tri thức mới. Vì vậy, các PM phải hỗ trợ việc tạo ra được các tình huống có vấn đề, phải thiết kế được môi trường sao cho HS có thể tác động lên các đối tượng và cùng với các chỉ dẫn có tính sư phạm, để giúp HS lĩnh hội các kiến thức toán học, tạo điều kiện phát triển trí tuệ cho các em.
PMDH phải tạo điều kiện cho HS thể hiện ý tưởng của mình, hỗ trợ HS tìm tòi, sáng tạo. Đồng thời cũng cần làm cho HS có cảm giác rằng mình là người điều khiển máy tính: lựa chọn các câu hỏi, tìm kiếm thông tin chỉ dẫn, tìm tòi và khám phá các đối tượng, làm chủ tiến độ làm việc với máy tính.
e) PMDH phải đảm bảo thuận tiện khi tương tác
Thực tế hiện nay, GV tiểu học dạy nhiều môn học, lại phải dạy nhiều tiết trong một ngày nên không có nhiều thời gian đầu tư cho các công việc phức tạp, tốn nhiều công sức. Vì vậy, PMDH không nên quá khó sử dụng, phải được tổ chức theo các nội dung đơn giản, kèm theo các hướng dẫn cụ thể để giúp cho GV sử dụng thiết kế các đồ dùng trực quan, các GAĐT dễ dàng hơn
PMDH phải có giao diện đẹp, thân thiện với người sử dụng và đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng. Vì ở tuổi của HS tiểu học, không phải em nào cũng biết và sử dụng thành thạo máy vi tính nên các thao tác trên phần mềm cần đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện đối với các em.
f) PMDH phải đảm bảo phối hợp các hình thức dạy học, các phương pháp dạy học và các phương tiện dạy học khác
Sử dụng PMDH nhằm thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nên trong quá trình GV sử dụng CNTT, cũng cần tính đến những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS mà mình sẽ sử dụng.
. Sử dụng CNTT&TT có nhiều thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động cá nhân và nhóm. Vì vậy, PMDH phải hỗ trợ cho GV thiết kế các nội dung theo hướng tổ chức các hình thức hoạt động nói trên. Đồng thời PMDH cũng cần kết hợp với các phương tiện dạy học khác như cassette, băng hình, video,…nhằm tạo nên những hình ảnh trực quan, những thông tin đa dạng, phong phú để hỗ trợ kịp thời cho HS trong việc hình thành, củng cố kiến thức.
g) PMDH phải đảm bảo hỗ trợ kiểm tra đánh giá người học
Trong quá trình HS thực hiện các thao tác, cùng với máy vi tính, PMDH phân tích, xử lí thông tin mà HS nhập vào và đưa ra những thông báo chính xác để hướng dẫn HS hành động hoặc điều chỉnh kịp thời những suy nghĩ, nhận xét, phán đoán của mình. Qua đó HS đánh giá được những kiến thức mà mình đã thu nhận. Đồng thời, với khả năng lưu trữ thông tin của máy tính và PMDH, GV có được những thông tin ngược để điều khiển và điều chỉnh việc tổ chức hoạt động dạy học được tốt hơn.
2.3. Một số PMDH thường sử dụng trong dạy học toán ở tiểu học
Phần mềm trình diễn PowerPoint
Phần mềm violet
Phần mềm hình học động Cabri Geometry
Phần mềm hình học động GSP
3. Điều kiện để có thể ứng dụng CNTT&TT vào dạy học toán ở tiểu học
3.1.Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất và thiết bị kĩ thuật hỗ trợ dạy học
Sử dụng CNTT&TT trong dạy học toán ở tiểu học theo hướng tất cả các HS đều có thể được thao tác, thực hành trên máy tính điện tử. Muốn vậy các trường tiểu học cần có một phòng học đa chức năng được trang bị tối thiểu các thiết bị:
- Một dàn máy vi tính khoảng từ 20 máy trở lên ( có nối mạng nội bộ ( hoặc nối mạng internet càng tốt), cài đặt sẵn các chương trình phần mềm. Có một máy chủ dành cho GV.
- Có một máy chiếu đa năng projector và một màn hình lớn, ( nên được lắp đặt sao cho bất kì máy nào cũng có thể kết nối lên màn hình lớn); bố trí sao cho không ảnh hưởng đến việc quan sát của HS và GV có thể ghi bảng được
- Cần bày trí phòng học sao cho thích hợp với diện tích của phòng và có thể tạo được không khí giao lưu thân thiện giữa GV và HS. Phòng học nên xếp theo hình chữ U, bảng đen ở phía trên để HS dễ quan sát và GV cũng có thể kiểm soát được các thao tác của HS. Bố trí chỗ ngồi của HS sao cho tối đa là 2 em cùng sử dụng một máy vi tính , bàn để máy vi tính phải có chỗ cho các em để sách vở, ghi chép. Việc trang trí phòng đa chức năng như các lớp học bình thường, cũng cần có các khẩu hiệu, các hình ảnh có tính giáo dục.
Như vậy môi trường học tập có sử dụng CNTT&TT đòi hỏi một phòng máy vi tính có nối mạng nội bộ hoặc nối mạng internet, máy chiếu projector, màn hình và hệ thống âm thanh.
Tuy nhiên trong trường hợp không có đủ phòng máy vi tính phục vụ cho học tập thì GV vẫn có thể sử dụng một máy tính, một máy chiếu, một màn hình để tổ chức cho hS học tậptheo hướng chủ yếu là trình chiếu, cũng có thể tạo điều kiện cho một vài HS thực hành thao tác. Theo cách này chính là xu hướng ứng dụng CNTT&TT mà thời gian gần đây được các GV triển khai thực hiện. Ở đây, cần lưu ý nếu như HS được thực hành thao tác trực tiếp trên các chương trình phần mềm thì hiệu quả của việc lĩnh hội kiến thức toán học sẽ cao hơn nhiều. Điều này phù hợp với định hướng tổ chức hoạt động dạy học sao cho mọi HS cùng làm việc, học thông qua hoạt động và bằng hành động
3.2. Có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV
Việc dạy học có sử dụng CNTT&TT đòi hỏi GV phải có một năng lực, trình độ tin học và ngoại ngữ nhất định, cụ thể là GV phải biết sử dụng thành thạo máy tính, phần mềm để có thể điều khiển, tổ chức hoạt động học tập của HS. Thực tế hiện nay cũng còn khá nhiều GV vẫn còn gặp khó khăn khi làm việc với máy vi tính. Điều này tạo ra tâm lí e ngại của họ khi sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại này, gây cản trở đối với việc ứng dụng CNTT&TT vào dạy học.
Để khắc phục khó khăn này, cần phải có một chiến lược đào tạo đội ngũ GV tương lai theo đúng chuẩn nghề nghiệp của GV tiểu học. Mỗi GV phải được đào tạo đầy đủ và bài barn ngoài kiến thức chuyên môn, còn phải có khả năng ngoại ngữ và trình độ tin học cơ bản, đủ để có thể sử dụng các phần mềm ở mức đơn giản vào dạy học ở nhà trường tiểu học.
Điều này, hiện nay đã được quán triệt trong các chương trình đào tạo GV tiểu học. Mỗi sinh viên trong quá trình học đều được tham gia các học phần ngoại ngữ và tin học, đặc biệt có thêm học phần ứng dụng CNTT trong dạy học. Đây là một trong những thực tế thuận lợi cho việc triển khai thực hiện đổi mới PPDH ở nhà trường tiểu học về sau.
3.3. Cung cấp đầy đủ và kịp thời các tài liệu hướng dẫn chương trình phần mềm mới
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, các phần mềm mới liên tục ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu cuả con người. Những người lập trình, các hãng sản xuất luôn có những sản phẩm hướng đến mục tiêu hỗ trợ GD, dạy học.
Một khi những sản phẩm đó đến với GD, cần phải được tổ chức kịp thời các khoá tập huấn, hướng dẫn GV cách sử dụng, đồng thời cũng cần cung cấp đầy đủ cụ thể các chương trình phần mềm, các tài liệu hướng dẫn sử dụng cho GV.
a) Đối với các cán bộ quản lí
3.4. Một số điều kiện khác
-Trước hết các cán bộ quản lí giáo dục các cấp phải nhận thức được tầm quan trọng và ảnh hưởng của việc ứng dụng CNTT&TT trong dạy học, nhất là trong dạy học toán ở tiểu học.
-Động viên, khuyến khích GV tích cực tham gia, hưởng ứng việc ứng dụng phần mềm vào dạy học toán ở tiểu học, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi , hỗ trợ cơ sở vật chất cho GV trong khi ứng dụng CNTT vào dạy học.
-Có biện pháp chế tài nhằm yêu cầu GV thực hiện việc ứng dụng CNTT&TT vào dạy học toán ở tiểu học.
-Có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về sự cần thiết phải ứng dụng CNTT&TT trong dạy học toán ở tiểu học.
b) Đối với GV
- Có tâm huyết với nghề, có thái độ tích cực, nhiệt tình hưởng ứng việc ứng dụng phần mềm vào thiết kế và sử dụng các mô hình hỗ trợ dạy học toán tiểu học.
c) Đối với HS
Trong thời đại công nghệ kĩ thuật số đòi hỏi HS phải thích nghi và thâm nhập vào môi trường có sử dụng CNTT&TT. HS cũng phải có hiểu biết về tin học , biết cách sử dụng và điều khiển con chuột, sử dụng máy vi tính.
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Lê Thanh Thịnh
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)