Chuyên đề: Một số hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích tác phẩm
Chia sẻ bởi Hoàng Thị Tám |
Ngày 12/10/2018 |
31
Chia sẻ tài liệu: Chuyên đề: Một số hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích tác phẩm thuộc Ngữ văn 9
Nội dung tài liệu:
MỘT SỐ YẾU TỐ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CẦN CHÚ Ý KHI PHÂN TÍCH THƠ TRỮ TÌNH
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong nền văn học Việt Nam chúng ta có thể thấy mảng thơ trữ tình chiếm một vị trí quan trọng và độc tôn. Điều đó không thể chối cãi. Vì vậy môn ngữ văn ở trường THCS cũng giảng dạy một số lượng thơ trữ tình cũng không ít trong các lớp 6, 7, 8, 9 gắn liền vớI các đề tài, chủ đề khác nhau. Với các nhân vật trữ tình khác nhaum xoay quanh đời sống tinh thần của con người, diễn tả nội tâm, tâm trạng và những cung bậc tình cảm khác nhau của con người. Chính vì vậy mà thơ trữ tình được đưa vào nhà trường là tất yếu. Vậy chúng ta phải dạy thơ trữ tình như thế nào để học sinh nắm được tâm trạng, cảm xúc, cách thể hiện tình cảm của các nhân vậttrữ tình được xem là đặc trưng nổi bật của thơ trữ tình. Sau đây là một vài yếu tố hình thức nghệ thuật cần chú ý khi phân tích thơ trữ tình.
CƠ SỞ LÍ LUẬN:
ĐẶC TRƯNG CỦA THƠ TRỮ TÌNH VÀ MỘT SỐ LỖI CẦN TRÁNH KHI PHÂN TÍCH THƠ TRỮ TÌNH.
1. Đặc trưng của thơ trữ tình.
Thơ là một hình thức nghệ thuật đặc biệt. Hệ thống cảm xúc, tâm trạng và cách thể hiện tình cảm, cảm xúc được xem như là đặc trưng nổi bật của thơ trữ tình. Trong các tác phẩm thuộc các thể loại như văn xuôi, tự sự, kịch… cũng có cảm xúc, tâm trạng, nhưng cách thể hiện thì rất khác so với thơ trữ tình. Cảm xúc của tác giả có trong các thể loại văn học kể trên là thứ cảm xúc được thể hiện một cách gián tiếp thong qua hệ thống hình tượng nhân vật, các sự kiện XH và các diễn biến của câu chuyện… Trái lại, trong thơ trữ tình, tác giả bộc lộ trực tiếp cảm xúc của mình.
VD trong đoạn thơ sau.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ song chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Tế Hanh – Quê Hương
Người đọc cảm nhận được rất rõ tấm lòng và tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ Tế Hanh đối với quê hương, nơi ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó một thời. Ở đây nhà thơ công khai và trực tiếp nói lên những tình cảm, suy nghĩ của chính mình. Khác cách thể hiện tình cảm trong thơ, chúng ta hay doc đoạn văn sau:
Hôm sau Lão Hạc sang nhà tôi, Vừa thấy tôi Lão báo ngay:
Cậu Vàng đi đợì rồi, ông giáo a. !
Cụ bán rồi?
Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
Lão cố gắng làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước…
Thế nó cho bắt à?
Mặt Lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu Lão nghoẹo về một bên và cái miệng móm mém của Lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…
(Nam Cao – LãoHạc)
Người kể chuyện ở đây xưng “tôi”, nhưng “tôi” đây là ông giáo chứ không phải Nam Cao. Nhà văn hoàn toàn không xuất hiện mà giấu mình đi. Trong trang sách chỉ có ông giáo kể lại câu chuyện. Như thế phải qua cách kể chuyện và miêu tả nhân vật ông giáo về nỗi ân hận, đau khổ đến cùng cực của Lão Hạc. Chúng ta mới thấy được tấm lòng thông cảm, thái độ trân trọng yêu mến của Nam Cao đối với nhân vật này.
Trong nhiều bài thơ trữ tìnhnhà thơ xưng “ta” chẳng hạn
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi”
(Tố Hữu)
Hoặc nhiều khi không thấy xưng “ta” hay “tôi” gì cả mà chỉ thấy một ai đó đang lẳng lặng kể và tâm sự, tâm tình, chẳng hạn
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
(Ông Đồ - VuDinh Lien)
Trong trường hợp như thế người ta xưng “ta” hoặc không xưng gì cũng đều là chính nhà thơ. Nghĩa là sau câu thơ vẫn hiện lên rất rõ tấm lòng và tình cảm sâu nặng của tác giả. Có những trường hợp nhà thơ mượn lời của một nhân vật nào đó, nhập vai vào một ai đó mà thổ lộ tâm tình (người ta gọi là trữ tình nhập vai) thì thực chất nhân vật trữ tình đó cũng chính là tác giả. Thế Lữ mượn lời con Hổ trong vườn bách thú để dốc bầu tâm sự của chính ông về nỗi chán ghét cái xã hội giả dối, nghèo nàn, nhố nhăng, ngớ ngẩn đương thời, để nói lên khát vọng tự do, khát vọng về một cái thời đi không trở lại… ông viết
“Ta sống mãi trong tình thương nỗI nhớ
Thủa tung hoành hống hách những ngày xua”
Thì ta ở đây la con Hổ cũng chính là nhà thơ Thế Lữ
Như vậy khi chúng ta phân tích thơ trữ tình thực chất là chỉ ra tiếng long sâu thẳm của chính nhà thơ. Nhưng tiếng long ấy lại được thể hiện rất cô đọng và hàm xúc bằng một nghệt thuật độc đáo - Nghệ thuật ngôn từ. Tiếp xúc với một bài thơ trữ tình trước hết là tiếp xúc bởi một hình thức nghệ thuật ngôn từ này. Nhà thơ gửi long mình qua những con chữ, trong những con chữ và các hình thức biểu đạt độc đáo khác. Tiếng kêu đau đớn đột ngột của Tố Hữu trước sự ra đi của chú bé lien lạc được thể hiện qua chữ “thôi rồi” và hình thức gẫy nhịp của câu thơ.
“Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồI lượm ơi!”
Như thế phân tích thơ trữ tình trước hết phải xuất phát từ chính các hình thức nghệ thuật, ngôn từ mà chỉ ra vai trò và tác dụng của chúng trong việc thể hiện tình cảm, thái độ của nhà thơ.
Nắm chắc đặc điểm và yếu tố trên chúng ta sẽ tránh được các lỗi dễ mắc trong việc phân tích và cảm nhận thơ trữ tình.
2. Những lỗi cần phải tránh khi phân tích thơ trữ tình:
Chỉ phân tích nội dung và tư tưởng được phản ánh trong bài thơ, không thấy hình thức nghệ thuật. Đây thực chất chỉ diễn xuôi nội dung thơ ra mà thôi
Có chú ý đến các hình thức nghệ thuật, nhưng tách rờI các hình thức nghệ thuật nhưng tách rời các hình thức nghệ thuật ra khỏi nội dung (thường là gần kết bài mới nói qua một số hình thức nghệ thuật được nhà thơ sử dụng trong bài)
Suy diễn một cách máy móc, gượng ép phi lí các nội dung và vai trò, ý nghĩa của các hình thức nghệ thuật trong bài thơ.
=> Tóm lại, để phân tích bài thơ trữ tình có cơ sở khoa học, có sức thuyết phục cần đến rất nhiều năng lực, nhưng trước hết người phân tích cần nắm được một số hình thức nghệ thuật sau
MỘT SỐ YẾU TỐ HÌNH THỨC NGHỆT THUẬT CẦN CHÚ Ý KHI PHÂN TÍCH THƠ TRỮ TÌNH.
Đọc tác phẩm văn học trước hết chúng ta tiếp xúc vớI những hình thức nghệ thuật cụ thể của ngôn từ nghệ thuật. Đó là những dấu câu và cách ngắt nhịp, là vần điệu, âm hưởng và nhạc tính, là từ ngữ và hình ảnh, là câu và sự tổ chức đoạn văn, là văn bản và thể loại của văn bản… Phân tích tác phẩm văn học không được thoát ly văn bản có nghĩa là trước hết phải bám sát các hình thức biểu hiện lên của ngôn từ nghệ thuật, chỉ ra vai trò và ý nghĩa của chúng trong việc thể hiện nội dung. Vậy chúng ta phân tích thơ trữ tình phải dựa trên thi pháp.
1. Nhịp thơ:
Nhịp điệu có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với thơ trữ tình. Nó giúp nhà thơ nâng cao khả năng biểu cảm, cảm xúc. Phân tích thơ trữ tình tình không thể không chú ý đến phân tích nhịp thơ. Để xác định nhịp điệu của từng bài thơ ngoài việc đọc từng câu thơ cho ngân vang âm điệu và làm bừng sang hình ảnh thơ, việc nắm được đặc điểm chung của mỗi thể loại cũng là điều rất cần thiết. Thường thường nhip điệu câu thơ lục bát uyển chuyển,mềm mại, thanh thoát, nhịp điệu thơ thất ngôn bát cú hài hòa, chặt chẽ, nhịp của thơ tự do, thơ hiện đại rất phóng khoáng, phong phú.
Trong thơ trữ tình, cùng với dấu câu, cách ngắt nhịp cần được xem là một từ đa nghĩa, một từ đặc biết trong vốn ngôn ngữ chung của nhân loại. Chúng ta đều biết rằng trong những tình huống giao tiếp thong thường của cuộc sống, im lặng lắm khi lại nói được rất nhiều: Khi căm thù tuột đỉnh, lúc xao xuyến bâng khuâng, khi cô đơn buồn bã, lúc xúc động dâng trào… Những cung bậc tình cảm ấy nhiều khi không được mô tả bằng chữ nghĩa. Sự ngắt nhịp là một trong những phương tiện hữu hiệu để thể hiện “sự imlăng không lời” tạo nên “ý tại ngôn ngoại”, tính hàm nghĩa tạo ra điều không thể nói.
VD: Khi dạy đoạn ngâm trong bài”Sau phút chia ly”. Ta thấy tâm trạng nhà thơ chi phối trực tiếp cách tổ chức, vận hành nhịp điệu của khúc ngâm. Với tâm trạng lưu luyến, nỗi buồn xa cách giữa người chinh phu và người chinh phụ. Chúng ta phải đọc đúng cách ngắt nhịp của khúc ngâm mới phân tích được khúc ngâm một cách sâu sắc.
2. Vần thơ
Tiếng Việt rất giàu tính nhạc. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của Tiếng Việt nói chung và ngôn từ văn học nói riêng. Vì vậy khi phân tích thơ trữ tình giáo viên cần chú ý phân tích vần thơ, cách gieo vần
VD: Cùng trông lạI mà cung chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Vần của các câu được hiện với nhau trong đoạn thơ trên là sự hài hòa trong cùng một âm vực cao thấp, một trường độ âm thanh phát ra. Đó là sự hài hòa có được từ việc phối âm giữa các tiếng trong một cặp song thất. Xét từng cặp câu chúng ta thấy được sự hòa âm giữa câu 1 và câu 2, giữa câu 3 và câu 4 nhờ vào những âm giống nhau giữa tiến thứ bảy của câu bảy và tiếng thứ năm của câu bảy ở câu song thất, giữa tiếng thứ sáu của câu sáu và tiếng thứ sáu của câu tám trong cặp lục bát. Với sự hòa âm này của các câu thơ như níu kéo, lưu giữ lấy nhau trong từng đoạn hay cả bài thơ tạo nên sự trầm lắng, mênh mông, bang khuâng, da diết của cái buồn trong đoạn thơ, góp phần biểu đạt một cách hiệu quả tâm trạng nhân vật trữ tình.
Tạo nên nhạc tính của thơ thực ra không chỉ có vần và hệ thống âm điệu mà ngay cả các âm trong mỗi tiếng cũng có những giá trị biểu đạt nhất định. Theo Đinh Trọng Lạc âm “a” gợi sự vui tươi bao la “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ( Phạm Tiến Duật), âm “r” gợi sự hãi hùng run sợ “Những luồng run rẩy rung rinh lá” (Xuân Diệu), Âm “u”, “âu” gợi sự u sầu bâng khuâng “Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu – Ngàn dâu xanh ngắt một màu”.
Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ để minh họa cho tính nhạc của ngôn ngữ Việt trong thơ. Khi ta phân tích tác phẩm văn học (Nhất là thơ) Giáo viên cần hết sức chú trọng yếu tố này. Khi thấy âm hưởng, nhạc điệu của câu thơ không bình thườngm, có sự chuyển đổi thì hãy tập trung phân tích chỉ ra giá trị, vai trò và tác dụng của chúng trong việc thể hiện nội dung.
3. Từ ngữ và các biện pháp tu từ:
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngôn từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học không thể có cách nào khác là nhờ vào hệ thống từ ngữ ấy. Cá phương tiện như dấu câu nhịp đi
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Hoàng Thị Tám
Dung lượng: 107,50KB|
Lượt tài: 0
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)