Chuyên đề dạy học theo phương pháp: "Bàn tay nặn bột"

Chia sẻ bởi Bùi Thị Thùy Dung | Ngày 09/10/2018 | 37

Chia sẻ tài liệu: Chuyên đề dạy học theo phương pháp: "Bàn tay nặn bột" thuộc Tự nhiên và Xã hội 3

Nội dung tài liệu:

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN MỸ ĐỨC
MÔN KHOA HỌC &TN-XH Ở TIỂU HỌC
CHUYÊN ĐỀ

DAY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP:" BÀN TAY NẶN BỘT"
Mỹ Đức, tháng 10 năm 2015
Nội dung
Phần thứ nhất: Giới thiệu chung về phương pháp”Bàn tay nặn bột”
1 Thế nào là “Bàn tay nặn bột” ?
2 Đặc điểm của PPBTNB
*Một số đặc điểm quan trọng để phân biệt Bàn tay nặn bột với các phương pháp dạy học khác :
3 Một số lưu ý khi dạy pp : Bàn tay nặn bột.
4 Những ưu điểm của phương pháp: Bàn tay nặn bột.
Phần thứ hai: Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
1 Giới thiệu tổng thể các bước của tiến trình.
2 Giới thiệu , phân tích chi tiết từng bước. Ví dụ minh họa
3 Một số lưu ý khi lựa chọn bài và vận dụng các bước của PPBTNB
Phần thứ ba : Tổ chức soạn bài theo PPBTNB.
Phần thứ tư: Trình bày bài soạn của đơn vị mình và thảo luận.
Phần thứ 5: Lấy ý kiến nhận xét về PPBTNB, nêu khó khăn thuận lợi, nhận xét đánh giá về chuyên đề, ….
* Một số đặc điểm quan trọng để phân biệt Bàn tay nặn bột với các phương pháp dạy học khác :
- Phương pháp Bàn tay nặn bột chú trọng biểu tượng ban đầu của học sinh trước khi tiếp cận kiến thức mới.
- Sự tiếp thu kiến thức của học sinh thông qua việc giáo viên giúp học sinh tự đi lại chính con đường mà các nhà khoa học đã tìm ra chân lí(kiến thức):
- Đó là: Đặt giả thuyết ( biểu tượng ban đầu), đặt câu hỏi khoa học, đề xuất phương án nghiên cứu và làm thí nghiệm để kiểm chứng giả thuyết, đưa ra kết luận.


Phương pháp Bàn tay nặn bột sử dụng vở thí nghiệm như là một phương tiện để rèn luyện ngôn ngữ viết cho học sinh trong quá trình học tập các kiến thức khoa học, tập làm quen với ghi chép một cách khoa học các thông tin thu nhận được trong giờ học.
-Việc phát hiện kiến thức của học sinh thông qua quá trình tiến hành thực nghiệm, hs sẽ phân tích, suy luận, thảo luận chung và tranh luận với bạn với giáo viên về những ý tưởng hay kết quả thực nghiệm( Tức là bắt đầu từ đầu giống như các nhà khoa học đã đi )
1.3 Một số lưu ý khi dạy pp : Bàn tay nặn bột.
Người học phải tự nhiên như quá trình tìm ra chân lý hoạt động tự nhiên.Với PPBTNB thì kể cả việc hs đọc sách trước, học thêm trước, biết trước kiến thức thì khi đề xuất ra các thí nghiệm để chứng minh,hs sẽ lúng túng khi được hỏi lại :
Vì sao em biết điều đó? Làm sao em chứng minh được kết luận của em là đúng ? Và nếu dạy trước thì tiết học sẽ không tốt cho lắm.
Sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột không được nhận xét quan điểm của ai đúng, ai sai. ( Đây là một điều mà chúng ta đặc biệt chú ý khi sử dụng phương pháp này và thông qua thí nghiệm thì chính hs sẽ tự đánh giá mình đúng hay sai.(Tức là hoàn toàn hs tự mình rút ra điều đó).


- PPBTNB rất phù hợp môn Tự nhiên & xã hội, môn khoa học bởi vì nó liên quan đến quan sát, liên quan đến thí nghiệm nhiều do đó mà nó rất phù hợp với bộ môn nói trên.
- Trong chương trình hiện nay thì có những bài áp dụng được cả quy trình của PPBTNB, nhưng có những bài chỉ áp dụng một phần.
1.4 Ưu điểm của phương pháp: Bàn tay nặn bột.
- Trong dạy học theo phương pháp BTNB, học sinh là người chủ động học tập, tự xây dựng kiến thưc thông qua khám phá, thử nghiệm, thảo luận, hợp tác với bạn với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên.Qua đó, học sinh nắm được kiến thức, phát triển năng lực nhận thức và tư duy sáng tạo; phát triển năng lực quan sát, thực hành; kĩ năng làm việc hợp tác theo nhóm; … Góp phần phát triển năng lực của học sinh.
- BTNB còn chú ý nhiều tới rèn kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết để hs phát triển khả năng diễn đạt, ngôn ngữ khoa học.
.

- Qua việc tích cực tham gia các hoạt động, qua các bước của phương pháp BTNB, học sinh hình thành các tác phong và thói quen làm việc khoa học, thói quen độc lập suy nghĩ, sáng tạo trong hành động, có lợi cho việc học tập và nghiên cứu sau này.HS cũng dần được hình thành, bồi dưỡng óc tò mò, ham muốn khám phá, lòng yêu thích và say mê khoa học.

Một số lưu ý khi soạn bài, vận dụng các bước của phương pháp BTNB:
Đối với môn khoa học thì hiện nay chúng ta đang dạy theo chủ đề.
Có 3 chủ đề cơ bản : Sức khỏe và con người, Thực vật, động vật, …Đặc điểm của môn khoa học, TN&XH là thiết kế theo chủ đề do đó vấn đề là chúng ta dạy như thế nào trong một chủ đề đó. Và đối với môn khoa học và môn TN&XH này thì tinh thần là giáo viên hoàn toàn có quyền tự chủ trên cơ sở sách giáo khoa, trên cơ sở chương trình quy định và sách giáo khoa chỉ là một kênh tham khảo.
Giáo viên có quyền thiết kế lại trật tự của sách giáo khoa đó theo một chủ đề để phục vụ cho việc dạy học theo PPBTNB.
Sử dụng linh hoạt PPBTNB.

10 nguyên tắc cơ bản khi áp dụng “Bàn tay nặn bột” trong giảng dạy của giáo viên
Thứ nhất: Học sinh quan sát sự vật, hiện tượng trong thực tế gần gũi với các em để các em dễ cảm nhận, dễ thực nghiệm trên chúng.
Thứ hai: Trong quá trình tự thực nghiệm, học sinh đưa ra ý kiến, nêu thắc mắc, kết luận riêng và thảo luận trong tập thể (nhóm, cả lớp) từ đó rút ra kiến thức khoa học.
Thứ ba: Giáo viên chỉ thực hiện vai trò đề xuất, tổ chức các thực nghiệm cho học sinh theo một tiến trình sư phạm chặt chẽ. Giáo viên không làm sẵn cho học sinh.
Thứ tư: Áp dụng phương pháp này cần một thời lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Tính liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được bảo đảm suốt trong thời gian học tập.
Thứ năm: Mỗi học sinh có quyển vở thực hành riêng do chính các em ghi chép theo ngôn từ và cách thức của riêng mình.
Thứ sáu: Mục đích chính của phương pháp này là học sinh tiếp nhận được các khái niệm khoa học và kĩ thuật thực hành. Song song đó là củng cố ngôn ngữ viết và nói của các em.
Thứ bảy: Phụ huynh học sinh và tất cả mọi người xung quanh cần được khuyến khích hỗ trợ những điều mà học sinh, lớp học cần để thực nghiệm.
Thứ tám: Các đối tác khoa học (trường ĐH, CĐ, trường nghề, viện nghiên cứu…) ở địa phương cần giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
Thứ chín: Ngành giáo dục, trường sư phạm giúp giáo viên các kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy.
Thứ mười: Giáo viên cần chủ động tự học, tự tìm hiểu tài liệu, kiến thức liên quan; trao đổi với đồng nghiệp, các nhà khoa học… để nâng cao kiến thức. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
A. Giáo viên: - Là người hướng dẫn:
+ Đề ra những tình huống, thách thức.
+ Định hướng các hoạt động.
+ Thu hẹp cái có thể.
+ Chỉ ra thông tin.
- Là người trung gian: Là nhà trung gian giữa “thế giới” khoa học và HS.
- Là người đàm phán với HS những thay đổi nhận thức liên quan với những câu hỏi được xử lí với các thiết bị thí nghiệm thích đáng , với mô hình giải thích hợp lí.
- Đảm bảo sự đón trước và giải quyết những xung đột nhận thức.
- Hành động bên cạnh HS cũng như mỗi nhóm, lớp.
B. Học sinh :Chủ động tìm đến những kiến thức khoa học theo sự định hướng của GV.
- Độc lập suy nghĩ, phán đoán, lập luận, bảo vệ ý kiến.
- Thảo luận, tranh luận với bạn bè bằng các hình thức nghiên cứu khác nhau để minh chứng cho những kết luận khoa học của mình, nhóm mình đưa ra.
. KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 .HỌC SINH 
Khó khăn :
Trình độ HS chưa đồng đều, Thao tác thực hành (còn chậm).
HS còn thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
HS chưa có thói quen sử dụng vở thí nghiệm.
HS đặt câu hỏi không sát với nội dung bài học 
BP Khắc phục:
Cần cho các em làm quen dần với PPBTNB.
Nói cho các em biết rõ hơn về PPDH mới.
Tạo một thói quen khi học tập với PPBTNB.
Khuyến khích HS còn hạn chế trình bày các ý kiến cá nhân ở tất cả các môn học.
Giáo viên phải biết chọn lọc câu hỏi.
KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 . THIẾT BỊ
Khó khăn :
Trang thiết bị chưa đầy đủ phục vụ cho việc thí nghiệm.
Rất khó tổ chức cho các em đi thám điều tra
BP Khắc phục:
GV tận dụng những nguyên vật liệu rẻ tiền có sẵn ở địa phương để phục vụ cho việc giảng dạy.
Có thể kết hợp với các lực lượng GD khác trong và ngoài nhà trường.
KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 .  BIÊN CHẾ LỚP HỌC
Khó khăn :
- Sĩ số đông ảnh hưởng đến việc tổ chức các hình thức dạy học.

BP Khắc phục:
 Sắp xếp bàn ghế phù hợp. - Bố trí nhóm từ 4 – 6 người.- Có chỗ dành riêng để vật liệu thí nghiệm. 

KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
 .  THỜI LƯỢNG TIẾT HỌC
Khó khăn :
Thời lượng cho 1 tiết dạy ở Tiểu học 35 - 40 phút nên GV thường bị ràng buộc về thời gian.
Làm thí nghiệm có thể thất bại nhiều lần.
Thời gian dành cho các hoạt động thí nghiệm (mất nhiều thời gian).
BP Khắc phục: Thời gian không quy định. Tuy nhiên nên hạn chế. Lớp 1,2,3 khoảng 50-60p. Lớp 4,5 khoảng 60- 70. Lưu ý : Cần báo cáo BGH khi dạy PPBTNB.
Sử dụng phương pháp này thường xuyên để rèn thói quen cho HS.
Rèn cho HS có kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc
GV cần có mặt kịp thời nhằm giúp nhóm trình bày ý tưởng, có thể điều chỉnh kịp thời để tránh thất bại nhiều lần.
Những vấn đề chưa cần thiết giải quyết trong tiết học GV hẹn dịp khác.
Đề xuất ý kiến lên các cấp quản lí giáo dục.
KHÓ KHĂN- BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
  GIÁO VIÊN
Khó khăn : -Hầu hết GV Tiểu học không được đào tạo chuyên sâu về kiến thức khoa học.Chưa đúng bản chất của PP BTNB 
- GV gặp khó khăn trong việc trả lời, lí giải thấu đáo các câu hỏi do học sinh nêu ra về các vấn đề khoa học.
-Giáo viên chưa có kinh nghiệm sử dụng PP BTNB
-GV gặp khó khăn khi tìm 1 số thí nghiệm chứng minh cho kiến thức bài học.
BP Khắc phục:
- Tập huấn, bồi dưỡng các kiến thức khoa học thường gặp cho GV.
-Thành lập nhóm các GV yêu thích PP BTNB: nghiên cứu và áp dụng PPDH, giúp đỡ các GV trong trường, chia sẻ kinh nghiệm áp dụng, chia sẻ đồ dùng dạy học ….
-Xây dựng ngân hàng BTNB: gợi ý tiến trình dạy học, tài liệu hướng dẫn GV, tư liệu phục vụ dạy học (phim, hình ảnh, tài liệu khoa học...),
 
Dùng phương pháp Bàn tay nặn bột để
dạy kiến thức : Cấu tạo bên trong hạt đậu.
Trong bài : Cây con mọc lên từ hạt- Lớp 5
Bước 2 : Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh.

VD : Làm bộc lộ quan điểm ban đầu của hs thì gv giao nhiệm vụ cho hs:
Trong hạt đậu có những gì ? Em hãy suy nghĩ và vẽ vào vở thí nghiệm hình vẽ mô tả bên trong hạt đậu, hs phải có nhiệm vụ đó và có thể mô tả bằng hình vẽ,có thể mô tả bằng lời.
Tức là đối với hs khả năng viết còn hạn chế thì hs có thể nói, có thể vẽ…
- Trong thời gian hs vẽ các ý kiến của mình vào vở thí nghiệm, giáo viên tranh thủ quan sát nhanh để tìm ra các hình vẽ ( Các biểu tượng ban đầu) khác nhau.
Giáo viên chú ý không nhất thiết để ý tới các hình vẽ đúng và cần phải chú trọng đến các hình vẽ chưa đúng, thiếu…
Vì đây là biểu tượng ban đầu ngây thơ của các em.
H1: Trong hạt đậu có nhiều hạt nhỏ.
H2: Trong hạt đậu có cây con với lá và rễ.
H3. Trong hạt đậu có cây đậu nở hoa và có nhiều hạt đậu khác.
H4. Trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ có rễ.
H5, 7, 9.Trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ.
H6,8. Trong hạt đậu có một cây đậu nhỏ với đầy đủ thân lá, rễ.
Bước 3 : Đề xuất câu hỏi(dự đoán/ giả thuyết) và phương án tìm tòi. ( Đây là bước hoàn toàn mới ).
+ Nhóm biểu tượng một : Biểu tượng h.vẽ của hs 1,5,7,9 đều cho rằng trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ khác.
Nhóm biểu tượng hai : Hình vẽ của hs 2,6,8 đều cho rằng: Trong hạt đậu đều có một câu đậu con với đầy đủ các bộ phận bên trong ( Tức là hs biểu hiện bằng hình vẽ đó )
Nhóm biểu tượng ba : Hình vẽ của hs trong hạt đậu có một cây đậu con có đầy đủ các bộ phận đã nở hoa, ngoài ra còn có nhiều hạt đậu khác( Tức là hs thể hiện trong hình vẽ là như vậy )
+ Nhóm biểu tượng bốn: Hình vẽ của hs cho rằng trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ đang mọc rễ.
Lưu ý: Các nhóm biểu tượng trên chỉ là một phương án. Có thể hs ghép h.vẽ 4 vào các nhóm hình vẽ 1, 5, 7, 9 hoặc nhóm hình vẽ 3 vào nhóm với các hình 2, 6, 8 đều chấp nhận được.



Từ các hiểu biết ban đầu của hs .
giáo viên hướng dẫn hs đặt câu hỏi nghi vấn:
- Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ không ?
- Có phải có cây đậu nhỏ nở hoa bên trong hạt đậu không ?
Có phải bên trong hạt đậu có nhiều hạt đậu nhỏ có rễ không ?
- …..
Đây là vấn đề hoàn toàn hs tự làm chứ cô giáo không có hướng dẫn ở đây. Và khi đặt ra câu hỏi đó thì hs đề xuất phương án thực hiện. - Khi đặt ra câu hỏi rồi, khi đề ra hình vẽ rồi thì bây giờ hs phải đề ra cách thực hiện để kiểm chứng xem giả thuyết,dự đoán,tưởng tượng của mình có đúng không.
Nhóm 1,2,3,4 đưa ra giả thuyết như vậy, bây giờ : Phải đề xuất phương án kiểm tra thực hành thí nghiệm xem những phương án nào là phương án đúng.

Học sinh đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu :
+ Phương án thứ nhất : là bổ hạt đậu đó ra ( Ở đây chúng ta chú ý là tách hạt đậu ra để tránh cái thay đổi cấu tạo bên trong hạt đậu. Tức là tách hạt đậu ra để quan sát bên trong)
+ Phương án thứ hai : Là xem hình vẽ trong sách giáo khoa.
+ Phương án thứ ba : Là xem tranh vẽ khoa học chụp hình cấu tạo bên trong hạt đậu.
+ Phương án thứ tư : Đi điều tra phỏng vấn .
Tóm lại là tất cả các phương án này là hs phải nêu ra và hs sẽ chọn phương án nào nó tối ưu nhất trong các phương án nói trên.
Bước 4 : Tiến hành thực nghiệm tìm tòi :
- Trong các phương án đưa ra thì chúng ta thấy là phương án tách hạt đậu ra là phương án tối ưu nhất.
- Giáo viên phải khéo léo nhận xét các phương án trên đều có lí nhưng tất cả phải thực hiện theo phương án tách hạt đậu ra để quan sát cấu tạo bên trong hạt đậu.
- Vì vậy sau khi thảo luận các nhóm thì chúng ta sẽ đưa ra phương án tối ưu nhất là : Học sinh phải tiến hành tách hạt đậu ra để quan sát.
Tóm lại : Giáo viên đưa ra hình ảnh chính xác nhất để cho học sinh so sánh với ý kiến của mình. Sau đó hs tự điểu chỉnh các thuật ngữ khoa học cần ghi chú thích trong hình vẽ mà các em đã làm chưa đúng. (Tức là giáo viên đưa ra một kiến thức chuẩn để học sinh tự điều chỉnh )
- Sau khi học sinh đã tự đưa ra kiến thức, giáo viên đưa ra kiến thức chuẩn thì bước 5 là bước kết luận và hợp thức hóa kiến thức.
- Giáo viên giới thiệu cấu tạo bên trong hạt đậu với hình vẽ khoa học có sẵn hoặc hình vẽ tự vẽ, nếu trường hợp không có tranh vẽ in sẵn giáo viên lưu ý hs về một số thuật ngữ khoa học về những nhầm lẫn mà các em chưa gọi đúng tên khoa học trong quá trình quan sát hình vẽ.
Bước 5 : Kết luận kiến thức.
- Sau khi quan sát rồi thì giáo viên yêu cầu hs vẽ lại hình vẽ đã quan sát và ghi chú thích các bộ phận bên trong của hạt đậu.
- Nếu hs chưa chú thích đúng hình vẽ quan sát thì giáo viên đừng vội chỉnh sửa ngôn ngữ. Học sinh quan sát gì,chú thích gì thì đó là quyền của học sinh, giáo viên không chỉnh sửa .
- Qua việc quan sát thì hs tự làm việc đó.
- Sau khi cả lớp thực hiện xong quan sát hình vẽ, chú thích xong hình vẽ thì giáo viên cho hs quan sát thêm một bức tranh phóng to cấu tạo bên trong của hạt đậu có chú thích và phóng lên màn hình máy chiếu …vv hoặc cho hs quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa.
Phần thứ ba :
Tổ chức soạn bài và thảo luận một số
bài theo phương pháp:
“Bàn tay nặn bột”
LỚP 4,5
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Bùi Thị Thùy Dung
Dung lượng: 1,08MB| Lượt tài: 1
Loại file: ppt
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)