Chủ đề tự chọn nâng cao

Chia sẻ bởi Hà Đức Thụ | Ngày 12/10/2018 | 179

Chia sẻ tài liệu: Chủ đề tự chọn nâng cao thuộc Ngữ văn 9

Nội dung tài liệu:

Thời gian: 4 tiêt
Ngày dạy:
Tổng số học sinh:
CHỦ ĐỀ
CÁCH TIẾP CẬN MỘT BÀI CA DAO


A. Môc tiªu
- HS nắm được cách tiếp cận nội dung và nghệ thuật một bài ca dao trong chương trình.
- Vận dụng vào việc phân tích, bình giảng bài ca dao đó trong chương trình văn học.
- Giáo dục tình cảm trân trọng tự hào nền văn học dân gian.
B. Thêi l­îng
- Tổng số tiết : 5 tiết
+ Tiết 1: Nội dung kiến thức cơ bản.
+ Tiết 2,3, 4,5: Bài tập thực hành ( GV căn cứ vào thực tế để phân phối thời gian cho phù hợp với nội dung)
C. Tµi liÖu tham kh¶o
1. Lịch sử văn học việt nam
2. S¸ch n©ng cao ng÷ v¨n THCS.
D. Tæ chøc thùc hiÖn.
I. NỘI DUNG KIẾN THỨC
Ca dao là những sáng tác trữ tình dân gian truyền miệng với những đăc trưng riêng khác với những tác phẩm trữ tình của văn học viết nên khi tiếp cận ca dao chúng ta phải có cách thức tiếp cận riêng.
1. Tinh thần tiếp cận
Khi tiếp cận môt bài ca dao cần đặc biệt lưu ý tới tính dân gian của các yếu tố nghệ thuật trong ca dao. Trước hết là ngôn ngữ, ngôn ngữ của ca dao là thứ ngôn ngữ mộc mạc, bình dị. Đai từ xưng hô vừa xác định lại vừa phiếm chỉ tạo cho ca dao tính chất kín đáo, tế nhị (như đại từ mình, ta, cô ấy, anh ấy…). Khác với ngôn ngữ thơ bác học, ngôn ngữ ca dao ít điển tích, dễ hiểu. Thời gian nghệ thuật thường nhắc đến là chiều chiều, hôm qua, ngày đi, ngày về, đêm qua, sáng ngày, hôm nao…, là thứ thời gian phiếm chỉ, mang tính điển hình, đúng với nhiều người trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Không gian nghệ thuật trong ca dao là cái ngõ, bên đàng, bên sông, bờ ao, đầu đình, cánh đồng, cái cầu, cây đa, bến nước, con đò…, những hình ảnh rất quen thuộc, thân thiết, gắn bó với người lao động nhưng cũng rất điển hình, mang tính khái quát, thể hiện tâm trạng điển hình trong ca dao.
Khi tiếp cận ca dao cần phải làm rõ tiếng nói của dân gian mang tính cộng đồng chứ không phải tiếng nói nhân dân mang tính cá thể.
2. Các bước tiếp cận một bài ca dao
- Tìm hệ thống dị bản
- Tìm hiểu hệ thống dị bản đó, định hướng thẩm mỹ cho bài ca dao
- Tìm hiểu các yếu tố nằm trong bài ca dao cần phân tích, chú ý tới tính dân gian của các yếu tố đó (các mô típ, kết cấu, thể thơ, ngôn ngữ, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật…)
- Tìm hiểu các yếu tố nằm ngoài văn bản bài ca dao (môi trường diễn xướng, người diễn xướng)
- Xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố trong và ngoài văn bản
- Tổng hợp đánh giá bài ca dao
II. BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Phân tích bài ca dao
Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi lúa chửa chia vè
Ngày về lúa đã vàng hoe cả đồng
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con bồng con mang
Bài ca dao là nỗi niềm nuối tiếc của một chàng trai khi đi xa trở về thì người con gái anh ta yêu đã đi lấy chồng.
Cấu trúc “ngày đi – ngày về” cứ lặp đi lặp lại để đối chiếu, so sánh sự biến đổi của cảnh vật và con người qua thời gian. Trúc chưa mọc măng ngày xưa giờ đã cao bằng ngọn tre. Lúa chưa chia vè giờ đã chín khắp cánh đồng. Âu đó cũng là quy luật tất yếu của tự nhiên. Cảnh vật qua thời gian đều biến đổi, khác xưa, và đăc biệt là biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Trước sự đổi thay ấy, con người cũng thay đổi. Người con gái chưa chồng ngày nào bây giờ thành phụ nữ có chồng và có một đàn con. Đó cũng là quy luật, quy luật của cuộc đời, bởi “đến duyên em thì em phải lấy chồng”, cũng như hoa đến thì phải nở, đò đầy phải sang sông.  Dẫu nhận thức được sự thay đổi ấy là thuận theo quy luật nhưng chàng trai vẫn nuối tiếc. Sự muộn màng làm cho con người phải đau mãi như chàng trai trong “Trèo lên cây bưởi hái hoa” hay chàng trai trong bài ca dao “Anh đến giàn hoa thì hoa kia đã nở…”
Điều đặc biệt ở bài ca dao này là tâm trạng của nhân vật trữ tình không được miêu tả trực tiếp mà ẩn giấu trong sự miêu tả khách quan, vui trước sư đổi thay của cảnh vật quê hương bao nhiêu thì lại xót xa khi người mình yêu đã lấy chồng bấy nhiêu. Một dị bản khác của câu cuối: “Ngày về em đã con dắt, con díu, con bồng, con mang”, hiện thực càng được tô đậm và nỗi đau của con người như càng đau đớn hơn.
Bài ca dao giản dị, dễ hiểu như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân (chửa – chưa)  để nói về một nỗi buồn đời thường, nỗi buồn của sự lỡ dở trong tình duyên.
2. Phân tích bài ca dao
“Con cò mà đi ăn đêm…”:
           “Con cò mà đi ăn đêm,
          Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
BÀI LÀM
          Cánh cò trong ca dao sao đẹp thế! Màu xanh của lúa điểm trắng cánh cò sớm sớm chiều chiều. “Con cò bay lả bay la – Bay từ cửa phủ bay ra cánh dồng…” Con cò là người bạn thân thiết, hiền lành của nhà nông. Con cò trong ca dao là hiện thân của người dân cày quê ta: chất páhc, siêng năng, cần mẫn, trải qua nhiều vất vả, gieo neo. Cánh cò từ hàng ngàn năm xa xưa đã nhập vào tâm hồn tuổi thơ qua lời ru êm ái, ngọt ngào của mẹ:
“Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
          Bài ca dao mượn tiếng kêu thương của con cò lâm nạn đẻ nói lên thân phận vất vả, bất hạnh của nhà nông, ca ngợi một tâm thế đẹp, thà chết trong còn hơn sống đục.
          Câu đầu nói về một cuộc đời, về một thân phận. Câu da đọc lên nghe nhiều thương cảm, ai oán”
“Con cò mà đi ăn đêm”
          Vạc mới đi ăn đêm, chứ cò thì kiếm ăn ban ngày. Cò phải đia ăn đêm, đó là một nghịch lý trong cuộc đời. Cuộc sống của cò nhiều lận đận, vất vả. Chữ “mà” trong câu ca làm nổi bật cấu trúc tương phản, gợi lên nhiều xót xa cảm thương cho một đời cò! Tục ngữ, ca dao của Vũ Ngọc Phan ghi là: “Con cò mày đi ăn đêm”.
          Cần cù, chịu khó kiếm ăn tưởng sẽ được ấm no, hạnh phúc? Bầy cò con chắc sẽ được mẹ cò tha mồi về tổ cho nhiều hơn? Cuộc đời vất vả gian truân thế, cò còn phải trải fqua nhiều bất hạnh đắng cay, nhiều hoạn nạn đau đớn không thể nào kể xiết! Cò đã “đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”. Cò có cánh, cò bay giỏi, cò có rơi xuống ao thì vẫn bay lên được. Hai từ “lộn cổ” nói lên tai họa cò gặp phải. Cò không thể nào thoát hiểm được khi bị “lộn cổ xuống ao”. Tiếng cò cất lên trong đêm khuya sao mà thảm thương thế. Câu cảm thán diễn tả tiếng kêu cứu, lời phân trần của cò:
“Ông ơi ông vớt tôi nao.
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng”.
          Ba từ “ông”, hai từ “tôi” được điệp lại như nốt nhấn bi thảm của bài ca. Cò mong “ông” cứu vớt, đoái thương. “Tôi có lòng nào…” là lời phân trần: cò đi ăn đêm… nhưng cò không phải là kẻ bất lương, mà cò hiền lành, lương thiện.
          Con cò trong bài ca dao là hình ảnh ẩn dụ, là biểu tượng về người nông dân “hai sương một nắng”. Đó là những con người hiền lành, chất phác cần cù, lam lũ, chịu thương chịu khó trong cuộc đời. Bất hạnh của con cò “lộn cổ xuống ao” cũng là những bất hạnh, hoạn nạn của nhà nông đứng trước mọi thế lực thống trị và áp bưc trong xã hội. Sưu cao thuế nặng. Ách thống trị nặng nề của bọn vua quan. Nạn áp bức, bòn rút của bọn địa chủ, cường hào. “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ” - Nửa công đưa ở, nửa thuê bò” (Nguyễn Khuyến). Trải qua hàng ngàn năm, người nông dân Việt Nam đã đổ mồ hôi vất vả làm ra củ khoai, hạt gạo nuôi sống nhân dân, nhưng cuộc đời của họ có khác gì thân phận con cò trong bài ca dao nay. Tiếng kêu thương của con cò đã vọng vào cuộc đời theo thời gian năm tháng. Bài ca dao đã gieo vào lòng chúng ta sự xót thương, đồng cảm với bao nạn nhân trong xã hội, nhất là đối với số phận người nông dân Việt Nam đêm trước cách mạng Tháng Tám.
          Bài ca dao càng trở nên sâu sắc và thấm thía khi chúng ta đọc đến hai câu cuối:
“Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”.
          Gặp tai họa chưa chắc đã thoát hiểm: tính mạng nghìn cân treo sợi tóc. Trước cái chết cầm chắc trong tay, thế mà cò chỉ nghĩ đến bầy con thơ, thương bầy con nhỏ tội nghiệp. Cò giàu tình thương yêu, giàu đức hy sinh và vị tha. Cò cam chịu số phận. Những phẩm chất ấy của cò cũng là những đức tính của nhà nông quê ta.
          Cái đặc sắc của bài ca dao là ngoài tình cảm nhân đạo còn hàm chứa tư tưởng rất đẹp. Đã có câu tục ngữ nêu lên cách ứng xử “đói cho sạch, rách cho thơm”. Đã có bài ca dao ca ngợi một tâm thế thanh cao “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bun”. Đã có một thế đứng cao đẹp như dáng trúc trước hoạn nạn: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Ở đây cũng vậy, qua thân phận con cò, nhà thơ dân gian đã nêu lên một triết lý nhân sinh tuyệt đẹp, ca ngợi tâm hồn trong sáng, hồn hậu: thà chết trong còn hơn sống đục! Hai chữ “trong” và “dục” tương phản nhau, lời nguyền của kẻ tử nạn trở nên thống thiết, khẳng định một lẽ sống đẹp. Chữ “xáo” được điệp lại 4 lần, ý thơ được nhấn mạnh diễn tả sự đinh của người bất hạnh trong cảnh ngộ đáng thương.
          Cuộc đời của anh Pha, chị Dậu, lão Hạc… có khác gì cuộc đời và thân phận con cò “lộn cổ xuống ao” trong bài ca dao này? Lão Hạc “thà chết trong còn hơn sống đục”; trước lúc kết thúc cuộc đời bằng cái bả chó, lão đã gửi lại ông giáo mảnh vườn cho đứa con tra tha hương chưa về, gời lại tiền cho ông giáo để lo việc tang ma… Người nhà quê tuy nghèo khổ nhưng tâm thế của họ đẹp lắm, đáng tự hào lắm.
          Bài ca dao này cũng như phần lớn các bài ca dao dân ca đều được viết bằng thẻ thơ lục bát. Bốn câu đầu, cách gieo vần rất sáng tạo độc đáo. Chữ cuối câu lục không vần với chữ thứ 6 câu 8 như thường lệ mà lại vần với chữ thứ 4 câu bát. Người ta gọi đó là lục bát biến thể”
“Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao.
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng…”
          Âm điệu bài ca như tiếng nấc, đọc lên nghe thật là ai oán, cay đắng nghẹn ngào. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, điệp từ và cảm thán đã góp phần làm tăng tính thẩm mĩ và biểu cảm của bài thơ dân gian này.
          Thương con cò lâm nạ “lộn cổ xuống ao…”, thương “con cò đi đón cơn mưa…”, thương “con cò chết rũ trên cây…”, chúng ta nghìn lần thương yêu, kính phục người dân cày Việt Nam. Hơn 80% dân số nước ta làm nghề nông. Nghề nông là n
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Hà Đức Thụ
Dung lượng: 87,50KB| Lượt tài: 15
Loại file: doc
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)