Chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành
Chia sẻ bởi Vũ Thuỳ Dương |
Ngày 11/10/2018 |
24
Chia sẻ tài liệu: chế định chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành thuộc Tiếng Anh 8
Nội dung tài liệu:
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Ở mỗi nước, nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua, Hoàng đế, Tổng thống, Đoàn Chủ tịch hội đồng liên bang, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước ở Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Dựa trên quan điểm phân biệt rành mạch giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Hiến pháp năm 1992 đã có sự phân biệt giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với chế định chế định Chủ tịch nước từ đó tách chế định Hội đồng nhà nước của Hiến pháp 1980 thành hai chế định độc lập: Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chủ tịch nước với vai trò to lớn vừa là nhân vật chính trị, vừa mang nhiều thuộc tính của cơ quan quản lý nhà nước. Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung còn quy định một cách cụ thể, đầy đủ, rõ ràng hơn về vị trí, tính chất, trách nhiệm pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
1. Những yếu tố tác động việc xây dựng chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992:
Chế định Hội đồng Nhà nước ngày càng lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trên thế giới diễn ra rất nhiều biến động lớn, mà tiêu biểu là hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Hiến pháp năm 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Một yêu cầu bức thiết được đặt ra, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và phát triển, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách đối ngoại... Tại kỳ họp thứ 5, nhiệm kỳ khoá VIII (60/6/1989), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết sửa đổi 7 Điều của Hiến pháp năm 1980 và cũng tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp năm 1980, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Chế định Nguyên thủ quốc gia tập thể theo quy định của Hiến pháp năm 1980 với những hạn chế của nó đã tỏ ra không phù hợp để lãnh đạo và điều hành đất nước, nhất là trong việc thực hiện và quyết định các chức năng đối ngoại. Với thực tiễn lập hiến của 40 năm cho cả hai mô hình Nguyên thủ quốc gia tập thể và Nguyên thủ quốc gia cá nhân cũng như tham khảo mô hình nguyên thủ quốc gia của gần 60 bản Hiến pháp thế giới, đã có nhiều phương án khác nhau về chế định Nguyên thủ quốc gia. Phân tích những ưu điểm và hạn chế của những phương án đó, nghiên cứu Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, kế thừa tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh về vị trí, tính chất, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch mà chế định Chủ tịch nước đã được thiết lập lại trong Hiến pháp năm 1992 (Quốc hội khoá VIII biểu quyết thông qua taị kỳ họp thứ 11 ngày 15/4/1992), nhưng có những đổi mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta trong giai đoạn mới.
2. Vị trí, tính chất, trật tự hình thành và trách nhiệm pháp lý của Chủ tịch nước:
Về vị trí, tính chất: Điều 101 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại"
Như vậy, cũng như các Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, Chủ
1. Những yếu tố tác động việc xây dựng chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992:
Chế định Hội đồng Nhà nước ngày càng lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trên thế giới diễn ra rất nhiều biến động lớn, mà tiêu biểu là hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Hiến pháp năm 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Một yêu cầu bức thiết được đặt ra, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và phát triển, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách đối ngoại... Tại kỳ họp thứ 5, nhiệm kỳ khoá VIII (60/6/1989), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết sửa đổi 7 Điều của Hiến pháp năm 1980 và cũng tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp năm 1980, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Chế định Nguyên thủ quốc gia tập thể theo quy định của Hiến pháp năm 1980 với những hạn chế của nó đã tỏ ra không phù hợp để lãnh đạo và điều hành đất nước, nhất là trong việc thực hiện và quyết định các chức năng đối ngoại. Với thực tiễn lập hiến của 40 năm cho cả hai mô hình Nguyên thủ quốc gia tập thể và Nguyên thủ quốc gia cá nhân cũng như tham khảo mô hình nguyên thủ quốc gia của gần 60 bản Hiến pháp thế giới, đã có nhiều phương án khác nhau về chế định Nguyên thủ quốc gia. Phân tích những ưu điểm và hạn chế của những phương án đó, nghiên cứu Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, kế thừa tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh về vị trí, tính chất, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch mà chế định Chủ tịch nước đã được thiết lập lại trong Hiến pháp năm 1992 (Quốc hội khoá VIII biểu quyết thông qua taị kỳ họp thứ 11 ngày 15/4/1992), nhưng có những đổi mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta trong giai đoạn mới.
2. Vị trí, tính chất, trật tự hình thành và trách nhiệm pháp lý của Chủ tịch nước:
Về vị trí, tính chất: Điều 101 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại"
Như vậy, cũng như các Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, Chủ
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Vũ Thuỳ Dương
Dung lượng: 20,90KB|
Lượt tài: 0
Loại file: rar
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)